AcDieu225
Co Vang amazon Tammy

Free Hit Counters
Web Site Hit Counters

cam-on-anh_TPB (2).jpg

Tiểu sử  và Chiến công của Trung tướng Ngô Quang Trưởng

 tuong_ngo_quang_truong

 

Trung Tướng Ngô Quang Trưởng (1932 2007 ) là một trung tướng trong Quân lực Việt Nam Cộng Hòa, phục vụ trong những năm 1954-1975. Ông được xem là người hùng Quảng Trị khi đánh bật quân cs Bắc Việt , tái chiếm Quảng Trị 1972 .

Trung Tướng Ngô Quang Trưởng sinh năm 1932, tốt nghiệp Khóa 4 Liên trường Võ khoa Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức năm 1954, ra trường được bổ nhiệm đại đội trưởng đại đội 1, Tiểu đoàn 5 Nhảy dù.

    Năm 1955, ông tham gia cuộc tiễu trừ lực lượng Bình Xuyên và được đặc cách thăng cấp trung úy tại mặt trận.

    Năm 1963, ông thăng cấp đại úy.

    Năm 1964, ông thăng cấp thiếu tá và được bổ nhiệm Tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù (TĐ5ND). Cùng năm 1964, TĐ5ND do ông chỉ huy trực thăng vận nhảy vào mật khu Đỗ Xá, thuộc quận Minh Long, tỉnh Quảng Ngãi, phá vỡ căn cứ địa của Bộ Tư lệnh Mặt Trận B1 của cộng sản Bắc Việt ,tịch thu 160 súng đủ loại.

    Năm 1965, Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù do ông chỉ huy trực thăng vận nhảy vào mật khu Hắc Dịch, thuộc vùng núi ông Trinh, tỉnh Phước Tuy (Bà Rịa), căn cứ của S Đ 7 cộng sản BV. Sau hai ngày chạm súng và gây thiệt hại nặng cho hai Trung Đoàn Q762 và Q762 thuộc S Đ 7 cs BV, ông được đặc cách thăng cấp trung tá tại mặt trận và được tưởng thưởng Đệ Tứ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương.

    Năm 1965 sau trận Hắc Dịch, ông được bổ nhiệm chức vụ Tham mưu trưởng Lữ Đoàn Nhảy Dù. Đến cuối năm 1965, bổ nhiệm Tham mưu trưởng Sư Đoàn Nhảy Dù.

    Năm 1966, sau biến cố bạo động miền Trung, ông được bổ nhiệm tư lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh (SĐ1BB), dưới quyền chỉ huy của tư lệnh Quân đoàn I, thiếu tướng Hoàng Xuân Lãm.

    Năm 1967, các đơn vị thuộc SĐ1BB do ông chỉ huy, gồm Đại Đội Hắc Báo Trinh Sát, cùng Chi Đoàn 2/7 Thiết Vận Xa M113, tăng phái Tiểu Đoàn 9 Nhảy dù do Thiếu tá Nguyễn Thế Nhã chỉ huy, tấn công và phá vỡ hạ tầng cơ sở và toàn bộ lực lượng cộng sản thuộc mặt trận Lương Cổ-Đồng Xuyên-Mỹ Xá thuộc quận Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Sau trận này ông thăng cấp chuẩn tướng.

    Năm 1968, các đơn vị thuộc SĐ1BB do ông chỉ huy, tăng phái Chiến Đoàn I Nhảy Dù (gồm các Tiểu Đoàn 2, 7 và 9 Nhảy Dù) do Trung tá Lê Quang Lưởng ( sau này là Thiếu Tướng ) chỉ huy đã phòng thủ thành công tại Huế trong 26 ngày (30 tháng 1 đến 24 tháng 2, 1968). Các đơn vị nầy đẩy bật các đơn vị xung kích của cs BV, gồm Đoàn 5 (các Tiểu Đoàn K4A, K4B, TĐ 12 đặc công nội thành, Thành Đoàn Huế) Đoàn 6 (các Tiểu Đoàn K41, K6, TĐ 13 đặc công nội thành Huế, các Đại đội đặc công 15,16,17,18, tăng cường một đại đội súng phòng không 37mm, hai đại đội cs quận Hương Trà, Phong Điền, hai đại đội biệt nội thành Huế), và hai Tiểu Đoàn 416,418. Tướng Trưởng và các đơn vị của ông đã giữ vững Huế và gây thiệt hại nặng nề cho các đơn vị tấn công Huế. Sau trận Mậu Thân ông được đặc cách thăng cấp thiếu tướng và được bổ nhiệm chức vụ tư lệnh Quân đoàn IV, Quân khu IV.

    Năm 1970 ông được thăng cấp trung tướng.

    Năm 1972 mùa hè đỏ lửa,  quân cs BV mở cuộc tấn công vào QK I. Lực lượng Quân lực Việt Nam Cộng hòa tại Quân khu I bị tổn thất tỉnh Quảng Trị . Tướng Ngô Quang Trưởng được điều động vào chức vụ Tư lệnh Quân đoàn I và Quân khu I thay thế Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm. Quân khu I , được tăng cường toàn bộ lượng tổng trừ bị của Quân lực Việt Nam Cộng hòa và được sự yểm trợ tầm xa bởi Hạm đội 7 Hoa Kỳ, đẩy lui và tái chiếm Thành cổ Quảng Trị và tất cả các phần đất bị chiếm phía Nam sông Mỹ Chánh,Cửa Việt , gây nhiều thiệt hại cho các đơn vị cs Bắc Việt  Năm 1975, . Với chức vụ Tư lệnh Quân đoàn I và Quân khu I, ông bị lấy đi Sư đoàn Dù đang cùng S Đ I và Sư đòan Thủy Quân Lục Chiến trấn thủ QK I. Ông được lệnh phải tử thủ Huế, nhưng sau ít lâu lại nhận lệnh di tản toàn bộ Quân đoàn I vào Đà Nẵng. Do thiếu thời gian chuẩn bị , cuộc di tản hoàn toàn thất bại, gây tổn thất  cho lực lượng quân sự và cơ giới của Quân đoàn I trong thời gian  ngắn,  vì hỗn loạn và lạc ngũ . Thiệt hại đáng kể nhất là việc quân đội Việt Nam Cộng Hòa mất hoàn toàn quyền kiểm soát vùng lãnh thổ có 3 triệu dân, và thiệt hại hai sư đoàn thuộc hàng thiện chiến nhất của Quân lực Việt Nam Cộng hòa là Sư đoàn 1 Bộ Binh và Sư đoàn Thủy quân Lục chiến, đưa đến sụp đổ toàn bộ miền Nam một cách nhanh chóng bất ngờ. Ông vào Sài Gòn và khai bệnh, dưỡng bệnh tại Sài Gòn cho đến khi Sài Gòn thất thủ. Ông di tản cùng gia đình qua Hoa Kỳ, định cư tại tiểu bang Virginia.

Ông cũng là một trong số ít tướng lĩnh Quân lực Việt Nam Cộng Hòa được đánh giá là thanh liêm trong sạch "Nhất Thắng, nhì Chinh, tam Thanh, tứ Trưởng" .

Các tác phẩm quân sự

Bắt đầu năm 1979, theo lời mời của Trung tâm Quân sử Quân lực Hoa Kỳ (U.S. Army Center of Military History), ông ghi lại kinh nghiệm chiến đấu qua 3 quyển sách hiện còn lưu trữ tại trung tâm kể trên.

    "The Easter Offensive of 1972" (1983),

    "Territorial Forces" (1984), và

    "RVANF and US Operational Cooperational Coordination" (1984).

 Nhận định về Ngô Quang Trưởng

Trong hồi ký của Đại Tướng H. Norman Schwarzkopf, nguyên Tư lệnh Bộ chỉ huy Trung Đông và tư lệnh quân đội Đồng Minh trong chiến dịch Bão Sa Mạc 1991, tướng Schwarzkopf viết "...[General Truong is] the most brilliant tactical commander I'd ever known ...", tạm dịch "[Trung Tướng Trưởng là] người chỉ huy chiến thuật kiệt xuất nhất mà tôi từng được biết".

Trung tá George W. Smith, nguyên cố vấn Sư đoàn 1 Bộ binh, trong bút ký "The Siege at Hue" viết: "General Truong was tough, disciplined, and dedicated to his military profession. Unlike many of his contemporaries who had climbed the ranks through political influence, nepotism, or cold, hard cash, he had earned his stars on the battlefield. He was viewed as a self-starter, without a hint of corruption or ego. He was regarded by the Americans as unquestionably the finest senior combat commander in the South Vietnamese army."; tạm dịch "Tướng Trưởng là một người cứng rắn, kỷ luật, và hết lòng với binh nghiệp. Không như một số đồng liêu của ông thăng quan tiến chức bằng quen biết hay lo lót, ông đeo sao trên vai bằng chiến công tại mặt trận. Ông là nguời cần mẫn, thanh liêm, và không tự cao tự đại. Người Mỹ cho rằng ai cũng phải nhìn nhận ông là người chỉ huy chiến đấu tài giỏi nhất của quân đội Nam Việt Nam."

________________________________________

THƯƠNG TIẾC MỘT VÌ SAO

Thiên hà,  thương tiếc cánh sao rơi

Dũng Tướng! Thiên thu vĩnh biệt Người!!

Từ phút hiến thân bồi Tổ Quốc

Đến ngày mất súng, nát cơ ngơi

Bốn vùng chiến thuật tài năng rạng

Ba cõi nhân gian đạo đức ngời

Vong quốc, anh hùng dù thế bí

Vẫn trong muôn thuở tấm gương đời !

 

Kính Điếu

Một người dân tị nạn CSVN

Ngô Minh Hằng

________________________________________

                  http://www.nguoi-viet.com/

________________________________________

Cựu Trung Tướng Ngô Quang Trưởng qua đời

Monday, January 22, 2007

Minh Tường/Người Việt

FAIRFAX, Virginia (NV) - Một nguồn tin thân cận của báo Người Việt cho biết ông Ngô Quang Trưởng, cựu trung tướng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, vừa qua đời vào sáng ngày 22 Tháng Giêng, 2007 tại thành phố Fairfax, Virginia, hưởng thọ 78 tuổi.

Trả lời phỏng vấn báo Người Việt, nhà văn Duy Lam, từng là chánh văn phòng cho Trung Tướng Ngô Quang Trưởng ở Quân Ðoàn 1, nói: “Sáng nay, tôi được vợ của ông gọi điện thoại báo cho biết ông đã qua đời một cách rất nhẹ nhàng tại bệnh viện Falls Church, Virginia. Trước đó một hôm, bệnh tình của ông trở nên nặng. Khi đưa vào bệnh viện thì ông bị hôn mê. Ông Trưởng bị ung thư phổi ba năm nay.”

Nhà văn Duy Lam nói tiếp: “Theo vợ của ông Trưởng cho tôi biết, lễ phát tang cố trung tướng sẽ được tổ chức vào sáng Thứ Tư tới đây tại Fairfax Memorial, Fairfax, Virginia. Theo ý của ông Trưởng khi còn sống, gia đình sẽ hỏa thiêu xác và đưa tro về thờ tại nơi sinh quán của ông.”

Ông Ngô Quang Trưởng sinh năm 1929 tại Bến Tre, Việt Nam. Năm 1953, ông vào trường Sĩ Quan Thủ Ðức, Khóa 4 phụ Cương Quyết và ra trường năm 1954 với cấp bậc thiếu úy trừ bị.

Sau đó, ông Ngô Quang Trưởng tình nguyện gia nhập binh chủng nhảy dù và lần lượt làm các chức trung đội trưởng, đại đội trưởng, tiểu đoàn trưởng và tham mưu trưởng Liên Ðoàn Nhảy Dù.

Năm 1966, ông được vinh thăng đại tá và giữ chức Tư Lệnh Sư Ðoàn 1 Bộ Binh. Năm 1967, ông lên chuẩn tướng và năm 1968 lên thiếu tướng. Sau đó, Thiếu Tướng Ngô Quang Trưởng được vinh thăng trung tướng.

Năm 1970, ông trở thành tư lệnh Quân Ðoàn 4 và Quân Khu 4.

Năm 1972, ông là tư lệnh Quân Ðoàn 1 và Quân Khu 1 và chỉ huy cuộc tái chiếm cổ thành Quảng Trị.

Ông Ngô Quang Trưởng đến Hoa Kỳ năm 1975. Cho đến ngày qua đời, ông rất ít khi xuất hiện trước công chúng. (M.T.)

________________________________________

TIỂU SỬ CỐ TRUNG TƯỚNG NGÔ QUANG TRƯỞNG

Ngô Quang Trưởng (sinh 13 Tháng Mười Hai, 1929 - mất ngày 22 Tháng Giêng, 2007) là một trung tướng trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, phục vụ trong những năm 1954-1975. Ông được xem là người hùng Quảng Trị khi đánh bật Cộng quân, tái chiếm thành cổ Quảng Trị năm 1972.

Con đường binh nghiệp

Ngô Quang Trưởng sinh năm 1932, tốt nghiệp khóa 4 Liên Trường Võ Khoa Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Ðức năm 1954, ra trường được bổ nhiệm Ðại Ðội Trưởng Ðại Ðội 1, Tiểu Ðoàn 5 Nhảy Dù.

•      - Năm 1955, ông tham gia cuộc tiễu trừ lực lượng Bình Xuyên và được đặc cách thăng cấp trung úy tại mặt trận.

•      - Năm 1963, ông thăng cấp đại úy.

•      - Năm 1964, ông thăng cấp thiếu tá và được bổ nhiệm Tiểu Ðoàn Trưởng Tiểu Ðoàn 5 Nhảy Dù. Cùng năm 1964, Tiểu Ðoàn 5 Nhảy Dù do ông chỉ huy trực thăng vận nhảy vào mật khu Ðỗ Xá, thuộc quận Minh Long, tỉnh Quảng Ngãi, phá vỡ căn cứ địa của Bộ Tư Lệnh Mặt Trận B1 của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, tịch thu 160 súng đủ loại.

•      - Năm 1965, Tiểu Ðoàn 5 Nhảy Dù do ông chỉ huy trực thăng vận nhảy vào mật khu Hắc Dịch, thuộc vùng núi ông Trinh, tỉnh Phước Tuy (Bà Rịa), căn cứ của Công Trường 7 của Cộng quân. Sau hai ngày chạm súng và gây thiệt hại nặng cho hai Trung Ðoàn Q762 và Q762 thuộc Công Trường 7, ông được đặc cách thăng cấp trung tá tại mặt trận và được tưởng thưởng Ðệ Tứ Ðẳng Bảo Quốc Huân Chương.

•      - Năm 1965 sau trận Hắc Dịch, ông được bổ nhiệm chức vụ Tham Mưu Trưởng Lữ Ðoàn Nhảy Dù. Ðến cuối năm 1965, bổ nhiệm Tham Mưu Trưởng Sư Ðoàn Nhảy Dù.

•      Năm 1966, sau biến cố bạo động miền Trung, ông được bổ nhiệm Tư Lệnh Sư Ðoàn 1 Bộ Binh, dưới quyền chỉ huy của Tư Lệnh Quân Ðoàn I, Thiếu Tướng Hoàng Xuân Lãm.

•      Năm 1967, các đơn vị thuộc Sư Ðoàn 1 Bộ Binh do ông chỉ huy, gồm Ðại Ðội Hắc Báo Trinh Sát, cùng Chi Ðoàn 2/7 Thiết Vận Xa M113, tăng phái Tiểu Ðoàn 9 Nhảy Dù do Thiếu Tá Nguyễn Thế Nhã chỉ huy, tấn công và phá vỡ hạ tầng cơ sở và toàn bộ lực lượng du kích địa phương thuộc mặt trận Lương Cổ-Ðồng Xuyên-Mỹ Xá thuộc quận Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Sau trận này ông thăng cấp chuẩn tướng.

•      Năm 1968, các đơn vị thuộc Sư Ðoàn 1 Bộ Binh do ông chỉ huy, tăng phái Chiến Ðoàn I Nhảy Dù (gồm các Tiểu Ðoàn 2, 7 và 9 Nhảy Dù) do Trung Tá Lê Quang Lưỡng chỉ huy, đã phòng thủ thành công tại Huế trong 26 ngày (30 Tháng Giêng đến 24 Tháng Hai, 1968). Các đơn vị này đẩy bật các đơn vị xung kích của Cộng quân, gồm Ðoàn 5 (các tiểu đoàn K4A, K4B, Tiểu Ðoàn 12 Ðặc Công Nội Thành, Thành Ðoàn Huế), Ðoàn 6 (các tiểu đoàn K41, K6, Tiểu Ðoàn 13 Ðặc Công Nội Thành Huế, các đại đội đặc công 15, 16, 17, 18, tăng cường một đại đội súng phòng không 37mm, hai đại đội du kích quận Hương Trà, Phong Ðiền, hai đại đội biệt nội thành Huế), và hai tiểu đoàn 416, 418 thuộc Ðoàn Cù Chính Lan (Ðoàn 9). Tướng Trưởng và các đơn vị của ông đã giữ vững Huế và gây thiệt hại nặng nề cho các đơn vị tấn công Huế. Sau trận Mậu Thân ông được đặc cách thăng cấp thiếu tướng và được bổ nhiệm chức vụ Tư Lệnh Quân Ðoàn IV, Quân Khu IV.

•      Năm 1970 ông được thăng cấp trung tướng.

•      Năm 1972, Cộng quân mở chiến dịch Trị-Thiên. Lực lượng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa tại Quân Khu I đã bị nhiều tổn thất. Tướng Ngô Quang Trưởng được điều động vào chức vụ Tư Lệnh Quân Ðoàn I và Quân Khu I thay thế Tướng Hoàng Xuân Lãm. Quân Khu I được tăng cường toàn bộ lượng tổng trừ bị của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và được sự yểm trợ tầm xa bởi Hạm Ðội 7 Hoa Kỳ đẩy lui và tái chiếm thành cổ Quảng Trị và tất cả các phần đất bị chiếm phía Nam sông Mỹ Chánh, gây nhiều thiệt hại cho các đơn vị Cộng quân.

•      Năm 1975, Cộng quân mở chiến dịch Huế-Ðà Nẵng. Với chức vụ Tư Lệnh Quân Ðoàn I và Quân Khu I, ông được lệnh tử thủ Huế, nhưng sau ít lâu lại nhận được lệnh bỏ Huế về Ðà Nẵng. Hai thành phố này rơi vào tay Cộng quân dẫn theo sự sụp đổ hoàn toàn của những tỉnh và thành phố suốt dọc miền Trung. Tướng Ngô Quang Trưởng trở vào Sài Gòn và sau đó đã di tản cùng gia đình sang Hoa Kỳ, định cư tại tiểu bang Virginia.

Ông cũng là một trong số ít tướng lĩnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa được đánh giá là thanh liêm trong sạch “nhất Thắng, nhì Chinh, tam Thanh, tứ Trưởng”. (Nguyễn Ðức Thắng, Phan Trọng Chinh, Nguyễn Viết Thanh, Ngô Quang Trưởng)

Cựu Trung Tướng Ngô Quang Trưởng từ trần vào lúc 3 giờ 20 sáng ngày 22 Tháng Giêng năm 2007.

Các tác phẩm quân sự

Bắt đầu năm 1979, theo lời mời của Trung Tâm Quân Sử Quân Lực Hoa Kỳ (U.S. Army Center of Military History), ông ghi lại kinh nghiệm chiến đấu qua 3 quyển sách hiện còn lưu trữ tại trung tâm kể trên.

•      “The Easter Offensive of 1972” (1983);

•      “Territorial Forces” (1984); và

•      “RVANF and US Operational Cooperational Coordination” (1984).

Trong suốt thời gian định cư tại Hoa Kỳ, ông ít xuất hiện trước công chúng

Người Việt

________________________________________

Ngô Quang Trưởng: một hổ tướng thanh sạch

Tuesday, January 23, 2007

Vũ Ánh

Cựu Trung Tướng Ngô Quang Trưởng đã qua đời tại Virginia, miền Ðông Hoa Kỳ, sau 3 năm tranh đấu với căn bệnh ung thư phổi, hưởng thọ 78 tuổi. Trong đời binh nghiệp, ông đã nhận trách nhiệm chỉ huy từ cấp trung đội trưởng, đại đội trưởng, tiểu đoàn trưởng, rồi tham mưu trưởng Liên Ðoàn Nhảy Dù; trước khi ông sang bộ binh nắm giữ các chức vụ quan trọng như Tư Lệnh Sư Ðoàn 1 Bộ Binh, Tư Lệnh Quân Ðoàn 4 và Vùng 4 Chiến Thuật, rồi Tư Lệnh Quân Ðoàn 1 và Vùng 1 Chiến Thuật.

Ðiểm đặc biệt nơi vị tướng này là ngoài tài điều binh của ông, dân quân, cán chính Việt Nam Cộng Hòa ai cũng nhắc nhở tới đời sống thanh sạch của riêng ông. Cũng không ai quên lối sống giữ gìn kỷ luật quân đội hết sức nghiêm minh, nhưng lúc nào cũng bày tỏ đầy lòng nhân ái với quân và với người dân. Những người thân cận với Tướng Ngô Quang Trưởng thường nhắc tới vẻ mặt khắc khổ của ông, cứ trông dáng người của ông đủ thấy một tâm hồn, một cuộc đời liêm chính mà ông đã giữ được, từ thủa thanh niên, thời trong quân ngũ, cho tới khi sống lưu vong ở đất người. Chúng ta có thể phải viết một cuốn sách rất dày về những giai thoại chung quanh ông và một tổng hợp của bức chân dung một mãnh tướng trong sạch có thể kể vào một trong số ít tướng lãnh hàng đầu của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Trong quân đội và trong dư luận dân chúng miền Nam Việt Nam, người ta truyền tai nhau một câu xếp hạng những tướng thanh liêm: “Nhất Thắng (Nguyễn Ðức Thắng), nhì Chinh (Phan Trọng Chính), tam Thanh (Nguyễn Viết Thanh) tứ Trưởng (Ngô Quang Trưởng). Trong bốn vị “tướng sạch” mà báo Diều Hâu nêu danh đó, Tướng Nguyễn Viết Thanh đã qua đời, ba ông kia đều sống “ẩn dật,” giữ một thái độ cao thượng đáng kính trong suốt những năm lưu vong. Trong cuộc đời binh nghiệp, Tướng Phan Trọng Chinh từng tham dự đảo chính từ năm 1960, Tướng Nguyễn Ðức Thắng cũng từng tham gia chính phủ làm chức bộ trưởng, chỉ có ông Ngô Quang Trưởng là một vị tướng thuần túy, chỉ cả cuộc đời trưởng thành dành cho quân đội. Ông là một vị tướng đứng ngoài các tranh chấp chính trị. Và đó là một điều khiến anh em quân đội vừa kính trọng, vừa cảm thấy gần gũi ông.

Ðiểm nổi bật nhất trong đời binh nghiệp của ông đó là trong khi ông chỉ huy những đại đơn vị ông vẫn tránh cho cá nhân ông và những sĩ quan, binh lính dưới quyền khỏi bị cuốn hút vào những ảnh hưởng chính trị, phe phái, mặc dù trong gia đình ông nhiều người hoạt động chính trị. “Quân đội là quân đội. Tôi nhận lệnh của Tổng Tư Lệnh Quân Ðội”. Ðó là câu nói trong lần đầu tiên ông tiếp xúc với báo chí ngoại quốc và trong nước tại Dinh Ðộc Lập, vài ngày trước khi ông rời chức vụ Tư Lệnh Quân Ðoàn IV và Vùng IV Chiến Thuật để ra nắm Tư Lệnh Quân Ðoàn I và vùng I Chiến Thuật thay thế Tướng Hoàng Xuân Lãm.

Tôi còn nhớ hôm đó, là một phóng viên mặt trận, tôi hỏi ông có phải việc đưa ông ra Vùng I và Quân Ðoàn I là do Tướng Hoàng Xuân Lãm đã thất bại trong cuộc hành quân Lam Sơn 719 hay không. Trong đời làm phóng viên mặt trận, tôi đã gặp ông rất nhiều lần ở vùng Ðồng Bằng Cửu Long cũng như vùng Hỏa Tuyến (Vùng I), nhưng mỗi lần giơ microphone của máy ghi âm ra là ông “lắc đầu”, bắt tay, rồi bỏ đi. Ông không tránh gặp báo chí; nhưng nếu nhà báo có gặp cũng chẳng bao giờ nghe ông nói gì. Ông không bao giờ nghĩ đến việc dùng những phương tiện truyền thông để đánh bóng cho cá nhân mình, nhưng Tướng Ngô Quang Trưởng đã được tuần báo TIME (?Newsweek?) ghi vào danh sách 52 nhà lãnh đạo tương lai có ảnh hưởng tại Á Châu, trong một số báo đầu năm 1975.

Nhưng ai cũng biết, sau biến cố 30 Tháng Tư 1975, lịch sử quay về hướng khác. Vị cho vị tướng lãnh tài ba với nhân cách cao thượng này phải giã từ vũ khí, chấp nhận sống cuộc đời lưu vong. Tuy trong hoàn cảnh đó, ông vẫn giữ đúng tư cách thanh cao trong một cuộc sống thầm lặng. Ðến nay, chắc ông đã được giải thoát, không cần mang tấc lòng u uẩn của mình xuống dưới tuyền đài.

Tôi chỉ biết về Tướng Ngô Quang Trưởng một chút như vậy; với lòng ngưỡng mộ ông của một nhà báo từng nhiều lần có dịp tường thuật về những chiến thắng quân sự mà các đơn vị Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa dưới quyền điều động của ông đã gặt hái được. Quý bạn biết nhiều hơn xin góp thêm tài liệu, để chúng ta cùng nhau thắp nén hương tưởng niệm một vị tướng đáng gọi là người anh lớn của quân đội ta. Sau biến cố 30 Tháng Tư, 1975, có nhiều cách nhìn khác nhau về ông, kể cả những thắc mắc, ngộ nhận về những giờ phút cuối cùng ông còn chỉ huy trong cuộc rút quân trong hỗn loạn. Tôi chưa bao giờ được nghe ông lên tiếng phân trần về những thắc mắc và ngộ nhận đó, trong lòng chỉ biết thêm kính trọng. Nhưng dù cách gì đi nữa thì chúng ta cũng không thể phủ nhận ông là một trong số ít tướng lãnh tận tụy đóng góp nhiều công lao trong việc xây dựng tinh thần quân đội Việt Nam Cộng Hòa, không phải chỉ cho những người được ông chỉ huy mà cả những người trong đời chỉ nghe đến tên ông, phục vụ trong các đơn vị khác. Suốt đời binh nghiệp, những cấp hiệu và huy chương ông mang trên người đều được đổi bằng máu và mồ hôi, bằng lòng yêu nước, với tình yêu quân đội của ông.

Người xưa đã nói, không thể mang thành bại mà luận anh hùng. Nếu kể đến thành bại thì những bao hổ tướng trong lịch sử, như Mai Thúc Loan, Trần Quang Diệu ở nước ta hay Quan Vũ, Nhạc Phi ở bên Trung Hoa đều đã từng thất bại. Chúng ta bây giờ chỉ biết mọi người mỗi khi nhắc tới Tướng Ngô Quang Trưởng đều cúi đầu tưởng nhớ với một niềm tôn kính.

Nay vị tướng được dân chúng và quân đội miền Nam kính trọng quý mến bậc nhất đã ra người thiên cổ. Ông mất đi, nhưng danh thơm sẽ không bao giờ xóa nhòa được trong quân sử Việt Nam Cộng Hòa.

VŨ ÁNH/ Người Việt

 

Trung Tướng Ngô Quang Trưởng Ra Đi 

Việt Báo Thứ Ba, 1/23/2007, 12:02:00 AM

 Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, nguyên Tư Lệnh Quân Đoàn I kiêm Tư Lệnh Vùng I Chiến Thuật, Cựu Sinh Viên Sĩ Quan Khóa 4 Võ Khoa Thủ Đức, đã tạ thế lúc 03:20AM ngày 22.01.2007 tại Virginia - USA.

Theo tin từ nhà khoa học Nguyễn Viết Kim, chuyển tin từ ông Phạm Xuân Thái, cho biết ca chi tiết sau:

“Trung Tướng Ngô Quang Trưởng

Sinh: 13-12-1929

Mất: 3:20 am 22-1-2007

Tại Inova Fairfax Hospital

Thành phố Fallchurch, Virginia.

Hiện Thi Hài Trung Tướng Trưởng Đang Được Quàn Tại

Nhà Quàn "Fairfax Memorial Home":

9902 Braddock Rd.

Fairfax,    VA 22032

(703) 425-9702

Bắt đầu thăm viếng: Thứ Tư 24-1-2007

 

Các Hội Đoàn Cựu Quân Nhân QLVNCH thăm viếng và thực hiện lễ nghi quân cách:

Thứ Năm 25-1-2007.

Lễ di quan và hoả thiêu tại nhà quàn: Thứ Năm 3 pm.

CHƯƠNG TRÌNH

Thứ Ba: KHÔNG

Thứ Tư (24-1-07) từ 11 am tới 9 pm: Gia đình, thân nhân và thân hữu thăm viếng.

Thứ Năm (25-1-07): từ 10 am tới 2 pm: Nghi lễ thăm viếng, phủ quốc kỳ của các hội đoàn cựu quân nhân VNCH.

Di quan (thiêu): 3pm cùng ngày.

Được biết trong tuần cuối cùng Trung Tướng Trưởng có vào bệnh viện vì yếu sức nhưng rồi lại về nhà khá vui vẻ, bình thường.

Tối ngày Thứ Bẩy, 20-1-2007, Trung Tướng Trưởng được nhập bệnh viện vì yếu sức.

Ngày Chủ Nhật, 21-1-07: Trung Tướng Trưởng được cho thở dưỡng khí và rồi nằm ngủ từ 5 giờ chiều (sau khi tiêm thuốc giảm đau) tới 3:20 sáng Thứ Hai (22-1-07) thì ra đi trong yên bình.”

* * *

Theo nghiên cứu của nhà quân sử Vương Hồng Anh, tiểu sử Tướng Ngô Quang Trưởng như sau:

“Tướng Ngô Quang Trưởng xuất thân khóa 4 Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức, ra trường với cấp bậc Thiếu úy vào tháng 6/1954. Từ giữa năm 1954 đến tháng 6/1966, phục vụ trong binh chủng Nhảy Dù qua các chức vụ trung đội trưởng, đại đội trưởng, Tiểu đoàn trưởng, Tham mưu trưởng, Tư lệnh phó Sư đoàn Nhảy Dù.

Được thăng cấp thiếu tá vào năm 1964, cấp trung tá (năm 1965) khi đang giữ chức Tiểu đoàn trưởng; thăng cấp đại tá (năm 1966) khi giữ chức Tư lệnh phó Sư đoàn Nhảy Dù.

Tháng 6/1966, được bổ nhiệm giữ chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ binh. Thăng cấp Chuẩn tướng vào tháng 2/1967, thăng cấp Thiếu tướng tháng 5/1968.

Đến tháng 8/1970, Tướng Trưởng rời Sư đoàn 1 Bộ Binh, về miền Tây giữ chức Tư lệnh Quân đoàn 4/Quân khu 4 và được vinh thăng Trung tướng vào tháng 11/1970.

Đầu tháng 5/1972, trong cuộc chiến mùa hè 1972, Trung tướng được Tổng thổng Nguyễn Văn Thiệu cử giữ chức Tư lệnh Quân đoàn 1/Quân khu 1. Sau khi Quân đoàn 1 triệt thoái khỏi miền Trung vào cuối tháng 3/1975, Trung tướng Trưởng được bổ nhiệm giữ chức Phụ tá Tổng Tham mưu trưởng Quân lực VNCH đến ngày 29/4/1975.”

Trong khi đó, bản tin đài truyền hình SBTN ghi chi tiết về một số chiến công của Tướng Ngô Quang Trưởng như sau:

“...Ông được xem là người hùng Quảng Trị khi đánh bật quân Cộng sản và tái chiếm Thành cổ Quảng Trị năm 1972. Ông tốt nghiệp Khóa 4 Liên trường Võ khoa Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức năm 1954, ra trường được bổ nhiệm đại đội trưởng đại đội 1, Tiểu đoàn 5 Nhảy dù. Năm 1955, ông tham gia cuộc tiễu trừ lực lượng Bình Xuyên và được đặc cách thăng cấp trung úy tại mặt trận. Năm 1963, ông thăng cấp đại úy. Năm 1964, ông thăng cấp thiếu tá và được bổ nhiệm Tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù. Cùng năm 1964, Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù do ông chỉ huy trực thăng vận nhảy vào mật khu Đỗ Xá, thuộc quận Minh Long, tỉnh Quảng Ngãi, phá vỡ căn cứ địa của Bộ Tư lệnh Mặt Trận B1 của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, tịch thu 160 súng đủ loại. Năm 1965, Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù do ông chỉ huy trực thăng vận nhảy vào mật khu Hắc Dịch, thuộc vùng núi ông Trinh, tỉnh Phước Tuy Bà Rịa, căn cứ của Công Trường 7 của Cộng sản Bắc Việt. Sau hai ngày chạm súng và gây thiệt hại nặng cho hai Trung Đoàn Q762 và Q762 thuộc Công Trường 7, ông được đặc cách thăng cấp trung tá tại mặt trận và được tưởng thưởng Đệ Tứ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương. Năm 1965 sau trận Hắc Dịch, ông được bổ nhiệm chức vụ Tham mưu trưởng Lữ Đoàn Nhảy Dù.

Đến cuối năm 1965, Trung tá Ngô Quang Trưởng được bổ nhiệm Tham mưu trưởng Sư Đoàn Nhảy Dù. Năm 1966, sau biến cố bạo động miền Trung, ông được bổ nhiệm tư lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh, dưới quyền chỉ huy của tư lệnh Quân đoàn I là thiếu tướng Hoàng Xuân Lãm. Năm 1967, các đơn vị thuộc Sư đoàn 1 Bộ Binh do ông chỉ huy, gồm Đại Đội Hắc Báo Trinh Sát, cùng Chi Đoàn 2/7 Thiết Vận Xa M-113, tăng phái Tiểu Đoàn 9 Nhảy dù do Thiếu tá Nguyễn Thế Nhã chỉ huy, tấn công và phá vỡ hạ tầng cơ sở và toàn bộ lực lượng du kích địa phương thuộc mặt trận Lương Cổ, Đồng Xuyên, Mỹ Xá thuộc quận Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Sau trận này ông thăng cấp chuẩn tướng. Năm 1968, các đơn vị thuộc Sư đoàn 1 Bộ Binh do ông chỉ huy, tăng phái Chiến Đoàn I Nhảy Dù gồm các Tiểu Đoàn 2, 7 và 9 Nhảy Dù do Trung tá Lê Quang Lưỡng chỉ huy, đã phòng thủ thành công tại Huế trong 26 ngày từ 30 tháng 1 đến 24 tháng 2 năm 1968. Các đơn vị này đẩy lui các đơn vị xung kích của Quân Giải phóng miền Nam, gồm Đoàn 5 các Tiểu Đoàn K4A, K4B, Tiểu đoàn 12 đặc công nội thành, Thành Đoàn Huế, Đoàn 6 gồm các Tiểu Đoàn K41, K6, Tiểu đoàn 13 đặc công nội thành Huế, các Đại đội đặc công 15, 16, 17, 18, tăng cường một đại đội súng phòng không 37 ly, hai đại đội du kích quận Hương Trà, Phong Điền, hai đại đội biệt nội thành Huế, và hai Tiểu Đoàn 416, 418 thuộc Đoàn Cù Chính Lan tức Đoàn 9. Tướng Trưởng và các đơn vị của ông đã giữ vững Huế và gây thiệt hại nặng nề cho các đơn vị tấn công Huế. Sau trận Mậu Thân ông được đặc cách thăng cấp Thiếu tướng và được bổ nhiệm chức vụ tư lệnh Quân đoàn IV, Quân khu IV. Năm 1970 ông được thăng cấp trung tướng.

Hai năm sau khi Cộng sản mở cuộc chiến mùa hè đỏ lửa, lực lượng Quân lực Việt Nam Cộng hòa tại Quân khu I đã bị nhiều tổn thất. Tướng Ngô Quang Trưởng được điều động vào chức vụ Tư lệnh Quân đoàn I và Quân khu I thay thế tướng Hoàng Xuân Lãm.

Quân khu I được tăng cường toàn bộ lực lượng tổng trừ bị của Quân lực Việt Nam Cộng hòa và được sự yểm trợ tầm xa bởi Hạm đội 7 Hoa Kỳ, đẩy lui và tái chiếm Thành cổ Quảng Trị và tất cả các phần đất bị chiếm phía Nam sông Mỹ Chánh, gây nhiều thiệt hại cho các đơn vị Cộng sản Bắc Việt và quân Giải phóng miền Nam. Đại tướng Norman Schwarkopf của Hoa Kỳ trong cuốn hồi ký viết vào năm 1992 đã ca tụng tướng Trưởng như một anh hùng trong trận đánh tại thung lũng Ia-Drang.

Sau năm 1975, ông di tản sang Hoa Kỳ và sống cùng với gia đình tại vùng tiểu bang Virginia ngay bên cạnh thủ đô Hoa Thịnh Đốn. Ông từ chối tiếp xúc với bất cứ ai, từ chối không trả lời các cuộc phỏng vấn của báo chí về những ngày cuối cùng, và không xuất hiện ở những chỗ đông người, nhưng luôn luôn được các cựu chiến sĩ kính trọng vì được mệnh danh là một trong 4 vị tướng thanh liêm trong sạch, qua câu "Nhất Thắng, nhì Chinh, tam Thanh, tứ Trưởng"...”

 

Điếu Văn: Trung Tướng Ngô Quang Trưởng

NGUYỄN DUY HINH . Việt Báo Thứ Sáu, 1/26/2007, 12:02:00 AM

 

(LTS: Sau đây là bài Điếu Văn Cố Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, do Tướng Nguyễn Duy Hinh phổ biến.)

 

Thưa Quí Vị,

Một vì sao sáng vừa lặn mất trên nền trời sao của VNCH :  trung tướng  Ngô Quang Trưởng đã qua đời!  Với riêng tôi, Ông là một kỷ niệm khá đậm nét.

Tôi biết Ông từ xa xa, những ngày Ông là Tư Lệnh Sư đoàn 1 Bộ binh ở Huế và tôi đã thật gần Ông từ 1970 khi Ông tới Cần Thơ nhận chức vụ Tư lệnh Quân đoàn IV / Quân khu 4 và tôi là Tư lệnh phó Lãnh thổ rồi Tư lệnh phó Quân đoàn.  Chúng tôi làm việc thiệt nhiều, đi bay thăm viếng mỗi ngày, để mắt đến ít nhất là năm tới bảy tỉnh hay quận trong cái quân khu gần hai chục tỉnh ấy.

Những năm 1970 sang 1971, Quân khu 4 được coi như bình định gần hoàn toàn.  Các đơn vị lớn của địch chạy sang Cam-Bốt.  Các căn cứ lớn của đối phương và các khu du kích địa phương nhỏ đã bị triệt phá, san bằng.  Quân khu 4 có bộ mặt hiền hoà tốt đẹp với kinh tế phát triển đến độ thời ấy, người ta dã nghĩ như chiến tranh sẽ tan biến đi. Đó là trạng thái suy sụp của chiến tranh du kích CS sau Tổng công kích, Tổng khởi nghĩa 1968.

Trung tướng Trưởng là một quân nhân thuần tuý, một tướng lãnh gương mẫu.  Ông tuân phục kỷ luật, làm việc cặm cụi, tận tuỵ, lãnh đạo bằng khuôn mẫu hành xử của mình.  Có một đặc sắc trong đường nét lãnh đạo của Ông:  nói thật ít và cặm cụi với công việc.

Ông thường hay vắng mặt về đêm.  Đêm như thế, khi trời vừa tối, Ông cùng Cố vấn trưởng đáp máy bay xuống một đồn Địa phương quân hay Nghĩa quân xa xôi nào đó.  Tất nhiên tới đồn không phải là để ngủ mà là dòm nom các trạm gác, các lỗ châu mai, hỏi han các chiến sĩ trong đồn, xem xét tình hình chung.  Rồi sau vài lần đi đêm như thế, tiếng đồn loan ra, trưởng đồn các thôn xóm đều kháo nhau :  có thể ông Tướng Tư lệnh Quân đoàn tới trong đêm và hãy chuẩn bị mà lo trước đi thôi.

Trung tướng Trưởng ít nói, quá  hà tiện lời nói, có thể gọi là lầm lì.  Nhưng Ông để ý vào chi tiết.  Tới thăm một đơn vị thì hay nhìn kỹ, quan sát một vài xó xỉnh nào dó, thí dụ như một góc nhỏ rác rến trong khu nhà bếp một đồn binh.  Ông không nói gì nhưng ngay sau đó, khi vị Tư lệnh QĐ đi khỏi thì ta có thể chắc chắn rằng các xó rác đó sẽ được dọn dẹp và giữ gìn sạch sẽ về sau.

Trong các buổi họp, sau một thuyết trình của một đơn vị trưởng nào đó, người ta thấy Trung tướng Trưởng gật gù, mắt chớp chớp, nói một vài lời ngắn ngủi, đôi khi không hẳn là rõ rệt.  Đây là một khía cạnh lãnh đạo khác của Tướng Trưởng.  Các đơn vị trưởng, các sĩ quan tham mưu nhiều khi không hoàn toàn lãnh hội được chỉ thị của vị tư lệnh.  Buổi họp kết thúc, công việc phải làm không ngưng nghỉ và tất cả vận dụng đầu óc, tìm giải pháp tốt đẹp nhất để hoàn thành nhiệm vụ.  Sự kiện này đưa đến cộng tác của hàng chục, hàng trăm cái đầu các cấp, thách đố và gây nên sự hợp tác, đóng góp tận lực của tất cả.  Ở đây tôi thấy sự hữu hiệu sắc nét của một khía cạnh lãnh đạo Ngô Quang Trưởng.

Rồi đến “mùa Hè Đỏ Lửa 1972”, Quảng Trị mất, dân Huế di tản, chợ Đông Ba cháy !  Buổi trưa ngày 3-5-1972, trở lại bộ Tư Lệnh sau khi gặp Tổng thống Thiệu tại Saigon, Tướng Trưởng mời tôi tới văn phòng;  Ông muốn tôi cùng ra Huế.  Vài giờ đồng hồ sau đó, chúng tôi giã biệt Cần Thơ.  Rời thủ phủ của Quân khu 4 an bình, tôi thấy chóng mặt khi đáp xuống Phú Bài.  Sát  cạnh phi đạo là hai khu tập trung thương binh Dù và Thuỷ quân lục chiến nằm ngồi nghiêng ngả, máu me, băng bó bê bết chờ di tản.  Dân chúng già trẻ chen chúc nheo nhóc  trong phi cảng chờ máy bay!  Tới Huế thì thấy đó là một thành phố vắng lạnh, người qua lại hốt hoảng, vội vàng.  Chợ  Đông Ba còn nghi ngút khói.

Đặt chân tới Mang Cá, nhận bàn giao quyền Tư Lệnh Quân đoàn I / Quân Khu 1 ngay chiều đó, Trung tướng Trưởng bắt đầu bay đi thăm các đơn vị tiền tuyến.  Tôi được chỉ định sắp xếp lại bộ Tham Mưu Hành Quân và chuẩn bị các kế hoạch mới.

Sáng hôm sau, dân Huế đồn nhau “Tướng Trưởng đã trở lại”, tướng Trưởng, người tử thủ Huế năm 1968 nay đã trở lại, mọi sự sẽ ổn định.  Huyền thoại Ngô Quang Trưởng như một chiếc đũa thần mang đến phép lạ.  Có lẽ tôi khỏi cần phải kể rằng ít tháng sau đó, với sự tận tình yểm trợ của Đồng Minh, Quân Đoàn I tăng cường hai Sư đoàn Nhảy Dù và Thuỷ Quân Lục Chiến đã tái chiếm lại hầu hết tỉnh Quảng Trị.

Tướng bốn sao Hoa Kỳ, H. Norman Schwarzkoff, trong cuốn sách ông viết về trận đánh “Bão Sa Mạc” mang tên “It doesn’t take a hero” đã nức nở ca ngợi tài điều binh và kinh nghiệm chiến trường của Trung tướng Trưởng khi Ông hành quân cấp tiểu đoàn và lữ đoàn.

Năm 1975, một thử thách ở cấp bậc cao hơn đang chờ đợi !  Ngày 10-3-1975, Ban Mê Thuột bị tấn công để rồi thất thủ ngày hôm sau.  Không đầy một tuần tiếp theo, Pleiku và Kontum bị rút bỏ.  Các lực lượng Quân Đoàn II và dân chúng nheo nhóc di tản chiến thuật.  Quân Khu 2 đối diện nguy cơ bị xẻ làm hai.

Trong khi mũi tấn công chính của Bắc Việt đang thi triển tại Vùng 2 thì các lực lượng của CS tại Vùng 1 ào lên khai thác tình hình.  Ngày 24-3-75, Tam Kỳ rồi Chu Lai, Quảng Ngãi di tản, Sư đoàn 2 Bộ Binh bỏ chạy ra cù lao Ré.  Ngày 25-3 Mặt trận Huế vỡ.  Thế trận đang chuyển thành một cuộc bao vây và tấn công tương lai vào Đà Nẵng, nơi đặt bản doanh của Trung tướng Trưởng.  Các tuyến phòng thủ quanh Đà Nẵng co lại để sửa soạn phòng ngự.  Trong không khí hoảng loạn của dân Vùng 1 lánh nạn cùng với tin địch khởi sự tấn công vào đêm 29-3-75 hoà với áp lực cân não mọi phía, Tướng Trưởng triệu tập một cuộc họp các Tư lệnh đại đơn vị tại bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng 1 vào 9 giờ 30 đêm 29-3-75 để rồi quyết định rút khỏi Đà Nẵng ngay đêm đó.  Quân khu giới tuyến thất thủ!

Trong suốt thời gian dài trên ba mươi năm định cư tại Virginia, tôi được may mắn ở gần và gặp gỡ Trung tướng Trưởng khá nhiều. Tôi đã mời mọc vị cựu Tư Lệnh của tôi tham gia một số công tác hứa hẹn về hướng đấu tranh dân chủ hoá cho VN, Trung tướng Trưởng bao giờ cũng từ chối.  Ông sống như âm thầm với một nỗi u sầu khép kín.  Thời gian sau này, Ông đã nói nhiều hơn một chút nhưng cũng chẳng bao giờ thổ lộ bầu tâm sự.  Với vài ba bài báo viết về Ông trong mấy ngày cuối của VNCH, Ông bảo là có điều đúng, có nhiều điều sai vậy thôi!

Một tướng lãnh người đời đánh giá là tài ba sau cùng đã theo nạn nước mà di tản để gậm nhấm nỗi buồn nơi xứ người.  Có một lần tôi hỏi Ông:  “Nếu như Trung tướng có thể xoá ván bài, làm lại ở Đà Nẵng thì Trung tướng sẽ làm như thế nào?”  Và cũng có lần Ông đã trao đổi và đặt câu hỏi với một sĩ quan tham mưu cao cấp cũ của Quân đoàn như sau : “Nếu khi ấy ta giữ Đà Nẵng thì có thể làm được không?”  Các câu trao đổi này cho thấy Ông vẫn mang nặng một niềm đau gậm nhấm tâm can!

Ngày nay, Trung tướng Ngô Quang Trưởng đã ra đi.  Lũ bạn già chúng tôi đây xin hẹn sẽ gặp lại chốn cửu tuyền kia, sớm hay muộn nào ai biết !  Dầu sao, sinh ly tử biệt là đau, là buồn !  Vậy xin tạm biệt và cầu chúc Trung Tướng sẽ an bình nơi Tiên cảnh.  Chúng tôi xin chân thành chia buồn cùng bà quả phụ Ngô Quang Trưởng và cùng toàn Tang Quyến trong giờ phút đau đớn này.

Chúng tôi cùng xin bái biệt Trung Tướng Ngô Quang Trưởng!

Thương thay!

Virginia,  25-1-2007

 

pic

Tang Lễ Của Cố Trung Tướng Ngô Quang Trưởng 

TUYẾT MAI . Việt Báo Thứ Sáu, 1/26/2007, 12:02:00 AM

Cố Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân  Đoàn I  kiêm Tư Lệnh Vùng I Chiến Thuật, pháp danh Nguyên Giác, sinh quán tại Giao Thanh, Bến Tre, Việt Nam đã vĩnh viễn từ giã gia đình, đồng bào và chiến hữu vào lúc 3:20 Am ngày 22 háng 1, 2007 tại Falls Church,VA. Hưởng thọ 78 tuổi.

Tang lễ được cử hành vô cùng trọng thể tại Nhà quàn Fairfax Memorial Funeral, Fairfax, VA dưới sự chủ lễ của Hòa Thượng Thích Trí Tuệ, Trung Tâm Phật Giáo Vạn Hạnh Virginia và Hoà Thượng Thích Tâm Thọ, Chủ trì Chùa Pháp Hoa, Lancaster, PA, cùng  ban  hộ niệm Pháp Hoa và Pháp Vương, VA.

Trong  ngày 24 Tháng 1 có rất đông đồng hương đến thăm viếng, chia buồn cùng tang quyến từ 10 giờ sáng đến 9 giờ tối. Ngày 25/1 từ 10 giờ sáng có rất nhiều cựu quân nhân và đại diện các quân binh chủng trong QLVNCH đến thăm và dự lễ phủ cờ.

Theo lời người trong gia đình, Cố Trung Tướng Trưởng có ước muốn tang lễ cử hành  đơn giản, nhưng đồng hương đã mến thương đến thăm  viếng quá đông,  căn phòng ở nhà quàn tràn ngập hoa tươi, cờ Trung Tướng và quốc quân kỳ, ở hai đầu quan tài luôn có hai quân nhân mặc quân phục đứng nghiêm chào.

Cựu Trung Tá TQLC Nguyễn Văn Phán điều hợp chương trình. Niên Trưởng Đào  Mộng Xuân đã đọc tiểu sử của Cố Trung Tướng Ngô Quang Trưởng như sau, Cố Trung Tướng Ngô Quang Trưởng sinh ngày 13 Tháng Mười Hai, 1929; mất ngày 22 Tháng Giêng, 2007. Ông  phục vụ trong QLVNCH từ 1954-1975,  được  xem là người hùng Quảng Trị khi đánh bật Cộng Quân, tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị, năm 1972.

Trung Tướng Trưởng tốt nghiệp khóa 4 Liên Trường Võ Khoa Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức. Năm 1954,  ông ra trường được bổ nhiệm Đại Đội Trưởng Đại Đội 1, Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù.  Năm 1955 ông tham gia cuộc tiễu trừ Lực Lượng Bình Xuyên và được đặc cách thăng cấp Trung Úy tại mặt trận. Năm 1965 sau trận Hắc Dịch ông được bổ nhiệm chức vụ Tham Mưu Trưởng Lữ Đoàn Nhảy Dù. Năm 1966 sau biến cố bạo động Miền Trung ông được bổ nhiệm Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh.

Năm 1970 Ông được thăng cấp Trung Tướng. Năm 1972 Cộng quân mở chiến dịch Trị Thiên, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng được điều động  vào chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn I  và Quân Khu I,  thay thế Tướng Hoàng Xuân  Lãm.

Năm 1975 Cộng Quân mở chiến dịch Huế- Đà nẵng, với chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn I và Quân Khu I ông được lệnh tử thủ Huế, nhưng ít lâu sau lại nhận đựơc lệnh bỏ Huế về Đà Nẳng. Hai thành phố này rơi vào tay CS dẫn theo sự sụp đổ hoàn toàn của những tỉnh và thành phố suốt dọc miền Trung. Trung Tướng Trưởng vào Saigon và sau  đó di tản cùng gia đình sang Hoa Kỳ, định cư tại VA.

Bắt đầu từ năm 1979 theo lời mời của Trung Tâm Quân Sử Quân Lực HK ông ghi lại kinh nghiệm chiến đấu qua ba quyển sách hiện còn lưu trữ tại trung tâm trên. Đó là  “The Easter Offensive of 1972 (1983) , “The Territorial Forces (1984) và “RVNAF and US Operation Cooperational Coordinatin (1984).

Trong thời gian định cư tại HK ông ít khi xuất hiện trước công chúng. Ông là một trong số ít tướng lãnh được đánh giá là thanh liêm trong sạch và tài ba trong QLVNCH.

Sau đó Cựu Thiếu Tướng Nguyễn Duy Hinh được mời lên đọc điếu văn.  Cựu Tướng Hinh nói, một vì sao vừa lặn mất trên nền trời sao của VNCH, Trung Tướng Ngô Quang Trưởng đã qua đời. Với riêng tôi  ông là một kỷ niệm khá đậm nét, tôi biết ông từ ngày là Tư Lệnh Sư Đoàn I Bộ Binh  ở Huế và tôi đã thật gần ông từ  1970 khi ông  nhận chức Tư Lệnh Quân Đoàn IV. Cựu Tướng Hinh nhắc lại ông và Trung Tướng Trưởng làm việc với nhau thật nhiều, đi bay thăm viếng mỗi ngày các quân khu vùng IV.

Trong năm 1970-1971  Quân Khu bốn coi như bình định hoàn toàn, các đơn vị lớn của địch nhảy sang Cao Miên,  các khu du kích nhỏ đã bị triệt phá, san bằng.  Quân khu IV có bộ mặt hiền  hòa, tốt đẹp, kinh tế phát triển tột độ thời ấy. Người ta nghĩ chiến  tranh sẽ tan biến mất. Đó là trạng thái suy sụp của chiến tranh du kích CS sau khi Tổng công kích, Tổng khơỉ nghĩa 1968.

Thiếu Tướng Hinh ca ngợi Trung Tướng Trưởng là một quân nhân thuần túy, một tướng lãnh gương mẫu. Ông tuân phục kỹ luật, làm việc cặm cụi, tận tụy, lãnh đạo bằng khuôn mẫu hành xử của mình. Có một đặc sắc trong đường nét lãnh đạo của ông là nói thật ít và cặm  cụi với công việc.

Ông thường hay vắng mặt về đêm. Khi trời tối Ông cùng Cố Vấn trưởng đáp máy bay xuống một đồn Địa Phương Quân hay Nghĩa quân xa xôi nào đó để hỏi han các chiến sĩ, xem xét tình hình chung. Trung Tướng ít nói có thể nói là lầm lì nhưng ông để ý vào chi tiết.

Rồi đến “Mùa Hè Đỏ Lửa 1972”, Quảng Trị mất, dân Huế di tản, chợ Đông Ba cháy. Sau khi  gặp  Tổng Thống Thiệu, Trung Tướng Trưởng mời Thiếu Tướng Hinh ra Huế,  tới Huế thì thấy đó là một thành  phố vắng lạnh, người qua lại hốt hoảng, vội vàng. Trung Tướng Trưởng đặt chân đến Mang Cá, nhận bàn giao quyền Tư lệnh Quân Đoàn I, Quân Khu I ngay chiều đó. Trung tướng Trưởng bắt đầu bay đi thăm các đơn vị tiền tuyến. Sáng hôm sau dân Huế đồn nhau “Tướng Trưởng đã trở lại” , Tướng Trưởng, người tử thủ Huế năm 1968 nay đã trở lại, mọi sự sẽ ổn định. Huyền thoại Ngô Quang Trưởng như một chiếc đũa thần mang đến phép lạ. Với sự tận tình yểm trợ của Đồng Minh, Quân Đoàn I tăng cường hai Sư Đoàn Dù và TQLC đã tái chiếm lại hầu hết tỉnh Quảng Trị.

Tướng Norman Schwarzkopf trong cuốn  “Tt Doesn’t Take A Hero” đã nức nở ca ngợi tài điều binh và kinh nghiệm chiến trường của Trung Tướng Trưởng, khi ông hành quân cấp sư đoàn, tiểu đoàn và lữ đoàn.

Năm 1975 trong không khí hỗn loạn của  Vùng I cùng với tin địch tấn công vào đêm 29/3/75 Tướng Trưởng triệu tập một cuộc họp các Tư Lệnh đại đơn vị tại Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng I rồi quyết định rút khỏi Đà Nẵng ngay đêm đó. Quân Khu giới tuyến thất thủ.

Thiếu Tướng Hinh kết luận, Trung Tướng Trưởng, một tướng lãnh được người đời đánh giá là tài ba sau cùng đã theo nạn nước mà di tản để gậm nhấm nỗi buồn nơi xứ người.

 Ngày nay Trung Tướng Trưởng Ngô Quang Trưởng đã ra đi,  dẫu sao sinh ly tử biệt là đau, là buồn! Vậy xin tạm biệt và cầu chúc Trung Tướng sẽ an bình nơi Tiên cảnh. Chúng tôi  xin bái biệt Trung Tướng Ngô Quang Trưởng.

 Trong dịp này Đại Tướng  Cao Văn Viên có gởi thư đến chia buồn cùng Bà quả phụ Ngô Quang Trưởng. Đại Tướng Viên nói vì sức khỏe không thể đến để chia buồn . Nay thì Trung Tưóng đã ra đi vĩnh viễn rồi. Nhưng Trung Tướng để lại trong lòng mọi người một sự kính trọng và quý mến sâu xa.

Trong suốt  cuộc đời binh nghiệp Trung Tướng Trưởng đã tỏ ra là một sĩ quan, một Tướng tài ba và giàu mưu lược. Trung Tướng Trưởng là sự hãnh diện của QLVNCH.

Đại Tướng Creighton Abrams, Nguyên Tư Lệnh Lục Quân HK và cũng là Tư Lệnh BTL/Viện Trợ Quân Sự HK tại VN đã nói rằng Trung Tướng Trưởng là một trong những Tư Lệnh Chiến Trường ưu tú nhất của VN.

Riêng Đại Tướng Norman Schowarzkopf, một vị tướng lừng danh của HK đã chiến thắng trong cuộc chiến tranh vùng Vịnh  cũng đã viết trong hồi ký của ông,  coi Trung Tướng Trưởng là một bậc Thầy và nói rằng Trung Tướng Ngô Quang Trưởng là một  thiên tài  quân sự.

Cuối cùng Đại Tướng Cao Văn Viên viết: Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, tôi rất hãnh diện là cấp chỉ huy của Trung Tướng.

Trong dịp này Giáo Sư Toàn Phong, Nguyễn Xuân Vinh, Chủ Tịch  Hội Đồng Đại Diện của Tập Thể  Chiến Sĩ  VNCH  Hải Ngoại có gởi thư  phân ưu.  Ông Đoàn Hữu Định đã đọc thư “Trung Tướng Trưởng, người hùng Quảng Trị, một tướng lãnh tài ba đã mệnh chung. Trung Tướng Ngô Quang Trưởng  ra đi  là một cái tang lớn cho  hàng ngũ cựu  quân nhân  QLVNCH, với lòng thành kính và ngưỡng phục của chúng tôi, thay mặt toàn thể chiến sĩ VNCH, thành  thật phân ưu và cầu nguyên  hương linh Trung Tuớng sớm về cõi vĩnh hằng.

Tới đây thì tám quân nhân trong quân phục (hai Dù, hai Thủy Quân Lục Chiến, hai Bộ Binh, một Không Quân, Một Hải Quân)  đã trang trọng làm lễ phủ cờ lên quan tài của Trung Tướng Ngô Quang Trưởng.

Niên Trưởng Lâm Duy Tiên thay mặt cho chiến hữu Chủ tịch Liên Hội CCSQG/VNCH và các hội đoàn liên hệ vùng HTĐ và các chiến hữu trong vùng đọc lời  phân ưu,  kính cẩn nghiêng mình truớc linh cữu của Cố Trung Tướng Trưởng và xin chân thành phân ưu cùng Bà quả phụ Cố Trung Tướng Trưởng, tang quyến và  nguyện cầu cho  hương linh Trung Tướng sớm an nghỉ nơi cõi vĩnh hằng

Đến 2:30 Hòa Thượng Thích Trí Tuệ và ban hộ niệm Pháp Hoa, Pháp Vương cầu nguyện theo  nghi lễ Phật giáo.

Theo sau  là lễ di quan, đi đầu là toán  quốc quân kỳ, quan tài được  dời đi, hai bên có  tám quân nhân đi theo. Khi quan tài được dời ra  khỏi phòng để có chỗ rộng rãi  hơn thì nghi lễ xếp cờ  bắt đầu. Tám  cựu quân nhân cùng nâng lá cờ lên rối xếp lại làm ba,  rồi xếp lại hình tam giác nhỏ theo lễ nghi quân cách xếp cờ. Lá cờ được Cựu Thiếu Tướng Phan Hòa Hiệp trang trọng trao lại cho Bà Quả Phụ Ngô Quang Trưởng.

Sau đó quan tài được tiễn đưa tới phòng hỏa táng, dọc theo đường, hai bên có nhiều  quân nhân các quân binh chủng trong quân phục đứng dàn chào. Trong niềm thương tiếc sâu xa, trong một không khí cảm động vô cùng,  mọi người cùng  đọc kinh  cầu nguyện Đức  Phật A Di Đà  tiếp dẫn  linh hồn cố Trung Tướng Ngô Quang Trưởng về cõi Phật. Chương trình tang lễ của Cố TrungTướng Ngô Quang Trương được chấm  dứt vào lúc 3 giờ chiều .

Chớp lóe xuyên Trời quân sĩ ơi!

Hùm thiêng vĩnh biệt thế gian rồi

TRỊ THIÊN, BÌNH GIÃ lừng danh tướng

Công trận còn lưu , tiếng để đời.

(Thơ Bảo Túc)

 

Báo Mỹ Viết Về Tướng Ngô Quang Trưởng 

Việt Báo Thứ Bảy, 1/27/2007, 12:02:00 AM

 Nhà Chiến Lược Lỗi Lạc, Tài Ba Được Người Mỹ Kính Trọng

 Tướng Ngô Quang Trưởng, người được tôn trọng là vị tướng liêm khiết và có tài điều binh khiển tướng giỏi nhất trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa vào thời chiến tranh Việt Nam, vừa từ trần vì căn bệnh ung thư tại bệnh viện Inova Fairfax.  Ông cư ngụ tại thành phố Springfield, VA.

Tướng Creighton Abrams, người đã từng chỉ huy quân đội Hoa Kỳ trong các cuộc hành quân từ 1968 đến 1972, thường kể cho binh sĩ cấp dưới là Tướng Trưởng có thừa khả năng điều khiển cả một sư đoàn quân binh Hoa Kỳ. Tướng Norman Schwarzkopf, người đã từng chiến đấu tạI Việt Nam, đã ghi trong tập hồi ký của ông tựa đề “It Doesn’t Take a Hero” rằng Tướng Trưởng là “một cấp chỉ huy chiến lược lỗi lạc nhất mà tôi được hân hạnh biết tới.”

“Chỉ cần hình dung địa thế và dựa trên kinh nghiệm 15 năm đấu tranh chống Cộng, Tướng Trưởng có một năng lực siêu kỳ có thể tiên đoán được nước cờ kế tiếp của kẻ địch,” Tướng Schwarzkopf ghi nhận.

Trong biến cố Tết Mậu Thân, Tướng Trưởng đã can trường bảo vệ cố đô Huế, chống chọi cuộc tấn công của Cộng Sản Miền Bắc.  Có thể nói đó là một trong những cuộc chiến đẫm máu và dài nhất trong chiến tranh Việt Nam.  Mùa Hè đỏ lửa vào tháng 5 năm 1972, ông đã trở lại Huế để chỉ huy quân đoàn vùng này.  Chuyến trở lại này đã làm êm dịu mối hoảng sợ của dân chúng và cho ông cơ hội triệu tập nhóm quân binh đã di tản đến Quảng Trị và tái lập quân ngũ.

3 năm sau, khi Cộng quân xâm lấn miền Nam, Tướng Trưởng được điều nhiệm di tản quân binh trong các vùng chiến thuật gần Đà nẵng.

Bộ Encyclopedia xuất bản năm 1996 ghi chép rằng, “tuy nhiệm vụ nặng nề này thất bại, chúng ta cũng không nên đổ lỗi cho Tướng Trưởng bởi vì lúc đó hoàn cảnh rất khó khăn.”

Dưới lằn mưa đạn và trọng pháo xối xả của Cộng quân, quân đội của ông phải tan rã và bỏ hàng ngũ. Tướng Trưởng đã phải bơi ra chiến hạm đậu nơi bờ biển và tái lập bộ chỉ huy vừa lúc Đà Nẵng rơi vào tay Cộng Sản.  Tướng Trưởng bay vào Sài gòn và phải vào ngay bệnh viện vì bị căng thẳng tinh thần, theo báo chí cho biết.  Một sĩ quan Hoa Kỳ từng làm việc thân cận với Tướng Trưởng cuối cùng tìm được ông và dàn xếp đưa ông và gia đình lên một chiến hạm Mỹ vừa đúng lúc Sài Gòn rơi vào tay Cộng Sản.

Gia đình Tướng Trưởng lại bị ly tán trong cuộc di tản này.  Vợ và con trai lớn của ông được đưa sang trại tị nạn Fort Chaffee, tiểu bang Arkansas; con gái và người con trai kế được nhân viên bộ Ngọai Giao Hoa Kỳ đưa sang Seattle, tiểu bang Washington; và cậu con trai út, lúc đó chỉ mới 4 tuổi và không nói được tiếng Anh, được đưa vào trại tị nạn Camp Pendleton, California, tạm trú trong vài tuần cho đến khi danh tánh của cậu được xác định.

Năm đó, Tướng Trưởng dọn về Falls Church và biên sọan tài liệu về quân sử gồm những sách “Easter Offensive of 1972” xuất bản năm 1979, “RVNAF and US Operational Cooperation and Coordination” xuất bản năm 1980 và “Territorial Forces” năm 1981.  Năm 1983, ông dọn về Springfield.  Cũng trong năm này, ông trở thành công dân Hoa Kỳ và giữ chức vụ nhân viên phân tích điện toán cho hãng Association of American Railroads cho đến ngày ông về hưu năm 1994.

Tướng Ngô Quang Trưởng sanh ngày 19 tháng 12 năm 1929, trong một gia đình thượng lưu tại vùng châu thổ Mê Kông, đồng bằng sông Cửu Long, thuộc tỉnh Kiến Hòa.  Theo truyền thống phong tục Việt Nam, ông họ Ngô tên Trưởng.  Người Mỹ cũng quen gọi ông theo quân tước và tên, nên danh xưng “General Truong” đã trở thành quen thuộc đối với các chiến sĩ Mỹ chiến đấu tại Việt Nam.

Tướng Trưởng tốt nghiệp tại Đại Học Mỹ Tho và tiếp tục theo học tại quân trường (Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức).  Gia nhập quân đội năm 1954, ông đã trải qua hơn 12 năm trong lữ đòan đặc biệt chuyên về tác chiến không sự, và năm 1966, ông được thăng chức Tư Lệnh Quân Đòan 1 Bộ Binh tại Huế.  Năm 1971, ông được chuyển sang điều hành quân sự cho tòan thể vùng đồng bằng Mê Kông.

Tướng Schwarzkopf ghi lại, “Trông ông ta không giống như người tôi mường tưởng là một thiên tài quân sự: cao chỉ khoảng 1m7, tuổi vừa hơn tứ tuần, gầy dong dỏng, với vai cong, lưng còng và cái đầu trông có vẻ to hơn người.  Gương mặt ông ta lúc nào cũng đăm chiêu, khó khăn, không đẹp trai cho lắm, và lúc nào cũng có điếu thuốc lưng lửng nơi góc miệng.  Thế nhưng, cả binh sĩ lẫn sĩ quan, ai ai cũng kính nể ông—và những giới chỉ huy Cộng Sản nào biết đến danh ông đều phải nể sợ.”

Không như những cấp chỉ huy khác mỗi lần thăng chức thì cũng tăng thêm tài lực, Tướng Trưởng sống một cuộc sống đạm bạc, khắc khổ.  Trung Tá về hưu John H. Cushman, người đã cùng chiến đấu và trở thành bạn thân của ông cho biết, ngay cả bộ complet Tướng Trưởng cũng không có và vợ của ông từng nuôi heo sau nhà trong trại sĩ quan nơi họ trú ngụ.

2 đêm trước ngày tổng tấn công của Cộng Sản trong Tết Mậu Thân, ông Cushman cho biết, Tướng Trưởng có linh tính chuyện không lành sẽ xảy ra và báo động cho quân binh biết.  Đêm thứ nhất trải qua bình yên nên ông giải tán nhóm cố vấn nhưng vẫn chuẩn bị quân đội.  Đêm ấy, quân Cộng tấn công và cuộc chiến kéo dài suốt mấy tuần lễ.

“Ông vẫn tồn tại trong khi bị quân địch bao vây,” ông Cushman kể tiếp. “Dù chúng đã chiếm hết thành trì, chúng không thể chiếm được đồn chỉ huy của ông…Ông có óc sáng tạo và luôn luôn tận dụng tìm cách tạo điều kiện tốt cho cuộc sống của binh sĩ và gia đình ông.”

Tướng Trưởng ra đi để lại người vợ hiền, bà Nguyễn Kim Dung cư ngụ tại Springfield; các con trai Nguyễn Xuân Thanh đang sống tại Slidell, LA, Ngô Quang Trí, Clifton, và Ngô Trị Thiên, Las Vegas; các con gái gồm Hùynh Mai Trinh, Fairfax City và Ngô Trâm-Tiara, Rockville.  Hậu phúc của Ông cũng để lại 12 cháu và 2 chắt.

Bài tường thuật của Patricia Sullivan trên Washington Post, Thứ Năm 25-1-2007, Lê Thùy Lan chuyển ngữ

Cựu Trung tướng Ngô Quang Trưởng qua đời tại Virginia: Một ngôi sao trên bầu trời vừa chợt tắt và để lại trong lòng đồng bào và chiến hữu bao niềm thương tiếc.

Jan 23, 2007 Calitoday

 

 Nhiều người đã bàng hoàng trước tin cựu Trung tướng Ngô Quang Trưởng, vị tướng hào hùng của quân lực Việt Nam Cộng Hòa đã qua đời tại Virginia vào ngày hôm qua.

Sau khi website của nhật báo Cali Today là calitoday.com loan tin này trong bản tin sáng sớm thứ hai và ngay sau đó bản tin chiều thứ hai, thì người Việt khắp bốn vùng chiến thuật đã bày tỏ lòng kính mến và thương tiếc một người anh hùng của đất Việt vừa giả từ chiến hữu, đồng bào để ra đi về cõi Phật. Số người phân ưu và thương tiếc ngày càng nhiều. Tin tức về sự ra đi của cựu Trung tướng Ngô Quang Trưởng làm nhiều người bàng hoàng và thương tiếc. Chị Kiều Mỹ Duyên gọi điện thoại lên tòa soạn nhắn: “Các em đừng archived sớm tin này nhé. Hãy giữ ở trang đầu để các chiến hữu khắp 4 vùng chiến thuật chia buồn.” Chúng tôi đã hứa với chị Kiều Mỹ Duyên là sẽ giữ bản tin này trên trang một cho đến khi nhục thể của cố Trung tướng Ngô Quang Trưởng được hỏa thiêu xong…

Một ngôi sao trên bầu trời vừa chợt tắt và để lại trong lòng đồng bào và chiến hữu bao niềm thương tiếc. Nhiều độc giả đã coi sự ra đi của Trung tướng Ngô Quang Trưởng như là một cái tang riêng cho gia đình của mình. Nhiều tuổi trẻ lớn lên sau chiến tranh, nhưng cũng đã nghiêng mình thương tiếc vì theo những câu chuyện kể của cha mẹ các cháu, ông ta là một anh hùng đất Việt trong thời đại ngày nay.

Non sông ưu tú và gấm vóc của đất Việt đã sản sinh một người hùng kiệt xuất từ tài năng đến đạo đức, khiến cho các tướng lãnh của Hoa Kỳ cũng một lòng ngưỡng mộ tài năng.

Chinh chiến có thắng có bại. Có những chiến thắng nhơ nhuốc và có những chiến bại hào hùng, và tướng Ngô Quang Trưởng tuy không giữ nổi miền Nam nhưng ông đã vươn thẳng người đứng dậy từ cuộc chiến trở thành một ngôi sao Bắc Đẩu về tài năng và nhân cách và tên tuổi của ông còn trong sự tôn kính của người đời.

Từ những vị tướng đồng môn cho tới những sĩ quan, hạ sĩ quan dưới quyền, không ai mà không thương tiếc vị tướng oai dũng Tư lệnh quân đoàn 1 quân khu 1, người từng oai hùng đánh bật quân đội Cộng sản Việt Nam tại Huế và Quảng Trị, và dựng lại lá cờ vàng trên kỳ đài mà hình ảnh này vẫn còn là một biểu tượng chiến thắng hào hùng của cả quân đội quân lực Việt Nam Cộng Hòa trước đây.

Tướng Ngô Quang Trưởng sinh ngày 13 tháng 12 năm 1929, tốt nghiệp khóa 4 sĩ quan Trừ bị Thủ Đức, nguyên Tư lệnh phó kiêm Tham mưu trưởng Sư đoàn Nhảy Dù, đã qua đời vào lúc 3 giờ 20 phút sáng ngày hôm qua thứ hai tại bệnh viện Inova Fairfax tại thành phố Falls Church tiểu bang Virginia, hưởng thọ 76 tuổi.

Nguồn tin từ gia đình cho biết trong tuần cuối cùng, Trung Tướng Trưởng có vào bệnh viện vì yếu sức nhưng rồi lại về nhà khá vui vẻ bình thường. Tối ngày thứ bảy, tướng Trưởng được nhập bệnh viện vì yếu sức. Ngày Chủ Nhật ông được cho thở dưỡng khí và rồi nằm ngủ từ 5 giờ chiều sau khi chích thuốc giảm đau, tới sáng thứ hai thì ông ra đi trong yên bình.

Nguồn tin từ những người thân cận cho biết tướng Trưởng là một Phật tử thuần thành, với pháp danh là Nguyên Chánh, linh cữu được Quàn tại Nhà Quàn Fairfax Memorial Home, địa chỉ 9909 Braddeck Road, Fairfax, Virginia.

Chương trình tang lễ được thông báo lễ phát tang vào lúc 10 giờ sáng ngày thứ tư, sau đó là để cho mọi người thăm viếng tới 9 giờ tối. Đến ngày thứ năm, vào lúc 10 giờ sáng sẽ diễn ra những lễ nghi quân cách, đọc tiểu sử, lời phân ưu và lễ phủ quốc kỳ của các Hội Đoàn cựu quân nhân quân lực Việt Nam Cộng Hòa, cho đến 12 giờ rưỡi sẽ là nghi thức di quan và 3 giờ chiều sẽ là lễ hỏa thiêu theo lời nguyện của người đã khuất. Trong niềm thương tiếc dành cho một vị tướng oai hùng, xin chia buồn cùng tang quyến tướng Ngô Quang Trưởng, và với binh chủng Nhảy Dù, Sư đoàn 1 Bộ Binh cùng các Sư đoàn mà vị tướng này đã từng chỉ huy, cùng nghiêng mình kính tưởng nhớ đến một người đã dành hết cả cuộc đời của mình để hy sinh cho chính nghĩa Tự Do.

Nhật báo Cali Today sẽ tiếp tục cập nhật tin tức về tang lễ của cố Trung tướng Ngô Quang Trưởng trong những bản tin tới.

________________________________________

Quân đoàn một mây sầu ảm đảm

Bang Virginia gió lạnh thổi từng cơn!

Nhớ khi xưa,

Ngô tướng quân nơi Cổ thành giương cờ đại soái,

Giặc Cộng nô phải thất đảm kinh tâm.

Khắp bốn vùng vang dội oai phong

Mưa nhân nghĩa thấm nhuần quân ,dân, cán ,chính

Than ôi!

Nay vận nước đang thế Bỉ,

Ma quỷ nắm binh quyền

Muôn dân đồ khổ.

Quỳ trước linh sàng.

Nén hương trầm thành kính dâng lên

Xin Ngô tướng anh minh hiển thánh,

Quay trở về diệt lũ Cộng ác ôn,

Cứu đất Việt qua cơn nghiệt ngã.

Có linh xin chứng giám!!

VinhNguyen (cục ANQĐ- Cần Thơ 1969)

________________________________________

 Thay lời phân ưu thành kính –

Nước Việt Lẫm Liệt NGUYỄN KHOA NAM

Nhà Nam Lẫy Lừng NGÔ QUANG TRƯỞNG

Đôi Thanh Gươm Báu - Địch Kinh Hồn

Hai Cổ Thần Công – Giặc Khiếp Viá

Nhà Tan - Ôm Quốc Kỳ Tuẫn Tiết

Nước Mất - Rũ Chiến Bào Thúc Thủ

Muôn Đời Lưu Danh Trang Chiến Sử

Vạn Kiếp Vang Tiếng Giấy Binh Thư

Ngàn Năm Thương Hoài Vị Danh Tướng

Thiên Niên Tiếc Mãi Đấng Anh Hùng

Xin kính cẩn ngiêng mình dâng lên một nén nhan lòng!!

N Nguyen

________________________________________

TIỄN BIỆT

Hôm nay tiễn biệt một anh hào

Thoát khỏi trần gian kiếp lao đao

Quảng Trị còn lưu bao chiến tích

Miền trung vẫn nhớ lắm công lao

Hiên ngang sát cánh cùng binh sĩ

Nghĩa khí tương thân với đồng bào

Tiết liệt gương kia còn sống mãi

Lưu danh hậu thế đến muôn trào.

Trở về đầu trang

________________________________________

Lịch Sử và Nhân Chứng

Lê Quê Lâm

(trích từ Tin Paris)

Ngày 21/01/2007 cựu trung tướng Ngô Quang Trưởng qua đời, năm ngày sau báo Sài-Gòn Nhỏ Orange ở Cali có bài viết “Tướng NQT, ông là ai?” Nội dung trích từ quyển sách của cựu thiếu tưóng Hoàng Văn Lạc và cựu đại tá Hà Mai Việt. Sau đó có hai tiếng nói phản hồi: Một của Nguyễn Thế Thiên & Sơn Hà với tựa đề “Sự thật về bài viết về tướng NQT” (The Little Saigon News of Orange, March 9-2007). Hai là bài viết “Lời nói không đúng, báo không nên viết!” của Phan Nhật Nam (Báo Dân Việt, Thứ sáu 23/03/2007).

Ba bài báo trên ghi lại một số biến cố trong cuộc chiến VN, với các nhận xét như: “tướng Trưởng tầm thường, sở dĩ được thăng thưởng là nhờ tướng Cao Văn Viên nâng đở, danh tiếng chỉ là huyền thoại”, hoặc tướng Hoàng Lạc thì “tự đề cao, viết sai sự thật”. Đó không phải là những điều mà người đọc quan tâm, họ chỉ muốn biết vị danh tướng nổi tiếng trong sạch NQT đã tiết lộ những sự thật gì về lịch sử, chẳng hạn như “Tại sao tôi bỏ Huế” hoặc “TT Thiệu đã chỉ thị gì khi ra lịnh ông rút bỏ QĐ I”…

Cuộc chiến đã kết thúc từ 32 năm trước, song có nhiều sự kiện chưa được sáng tỏ, hầu giúp những người đi sau “ôn cố tri tân” để đưa đất nước vượt qua thảm trạng hiện nay. Nhiều nhân chứng lịch sử lần lượt qua đời và hiện có khá nhiều hồi ký viết về những biến cố trước 1975. Mỗi tác giả tùy theo vị trí đứng của mình mà nhận định về lịch sử. Họ có quyền tự hào hoặc biện minh việc mình đã làm; họ có thể đề cao những ai ban ơn cho họ. Không ai chê trách mà có thể còn khen sự trung hậu của họ… Nhưng xin đừng có ý nghĩ muốn độc giả đồng tình với mình. Cũng phải tôn trọng lịch sử và người đọc, giúp họ thấy được sự thật của những biến cố lịch sử, họ cũng có đầu óc để nhận xét cái đúng cái sai.

Theo nhà báo lão thành Nguyễn Tú, lịch sử ghi lại những sự kiện xảy ra theo đúng nguyên trạng, từ đó các sử gia sắp xếp có suy nghĩ để tạo thành một toàn cảnh chung, giúp họ nhìn thấy rõ các sự kiện trong tiến trình xảy ra mà viết thành sử. Việc sắp xếp các sự kiện lịch sử để tạo dựng lại được một cách trung thực dù là tương đối -một giai đọạn lịch sử khả tín, các sử gia không khỏi vấp phải những chỗ trống nan giải, lúc này đành phải để chữ “tồn nghi” chưa chắc chắn, để người sau bổ túc. Tuy nhiên, lịch sử -bất luận ở thời đại nào, bất cứ ở nơi đâu, xưa nay, đều không bao giờ có chuyện “ngẫu nhiên”. Lịch sử -theo một qui luật bất di bất dịch là qui luật “nhân quả”, để nhận định, mà không cần phán xét rườm rà; còn người đời, có thể “tùy nghi”. Lịch sử đứng trên tất cả vì tính chất vô tính, vô tình và vô thần của nó. Lịch sử cũng không cần được ban cho hai chữ “khách quan”. Lịch sử là lịch sử thế thôi. (1) Rất tiếc có nhiều tác giả vì muốn lôi kéo người đọc đứng về phía họ, nên cố tình bóp méo sự thật lịch sử. Vô hình chung, tự mình đánh mất giá trị của mình và còn mang tội đối với đất nước.

Lịch sử do con người làm ra, họ tạo nhân gì tất gặt quả nấy, không thể nào tránh khỏi, đó là tính tất yếu của lịch sử. Nói “lịch sử phán xét” chớ thật ra cũng do người đời mà thôi, nhưng dựa vào đâu để phán xét? Có lẽ phải dựa vào việc làm của những “nhân vật” lịch sử có đáp ứng với lợi ích chung của nhân dân hay không? Có hợp với đạo đức của dân tộc, với thời thế và trào lưu tiến hóa của nhân loại hay không? Trước thảm trạng đất nước, những ai còn ưu tư đến tiền đồ dân tộc phải chịu khó đọc lại lịch sử, cần lịch sử soi sáng…Nhưng lịch sử phải được ghi lại đúng như nguyên trạng của nó.

Nhân ngày 30/4 và một nhân chứng lịch sử vừa vĩnh viễn ra đi, chúng tôi xin ghi lại một bí ẩn lớn trong cuộc chiến VN mà rất ít người biết được. Đó là Bản dự thảo Hiệp định Paris ngày 26/10/1972 ra đời trong bối cảnh nào?  Từ đó đưa đến sự xung đột trong mối giao hảo giữa VNCH và đồng minh HK với kết cuộc là biến cố 30/4. Đồng thời cũng để tưởng niệm cố Trung tướng Ngô Quang Trưởng.

 Xế chiều ngày 25 tháng 10 năm 1972, từ bản doanh BTL Tiền phương QĐ I ở Phú Bài (Huế), tướng Ngô Quang Trưởng khẩn trình TT Thiệu một tin tức quan trọng: Lực lượng Cảnh sát Quốc gia QK 1 vừa tịch thu một mật điện của Bộ Tư lịnh QK 5 CS gởi Bộ Chỉ huy Thị đội Tam Kỳ (Quảng Tín) cho biết một hiệp định ngưng bắn sẽ được ký kết ngày 26/10. Kèm theo mật điện là bản phương án hướng dẫn việc cắm cờ lấn đất giành dân và sách động đồng bào xuống đường mừng hòa bình. Lợi dụng khí thế quần chúng, cán bộ CS hô hào đốt phá các cơ sở quân sự tiến tới cướp chánh quyền.

Được báo cáo của tướng Trưởng, TT Thiệu chỉ thị Bộ TTM chuyển cấp tốc tài liệu đó về Sàigòn. BTL/KQ liền điều động hai phi cơ A37 từ Bình Thủy (Cầnthơ) về phi trường TSN đưa T/tá Võ văn Thành, Trưởng ban Tiếp nhận và Chọn lựa tài liệu, đi QK1 lấy tài liệu. Khi A37 sắp đáp xuống Đà Nẳng, phi công báo về Sàigòn, lúc bấy giờ tướng Võ xuân Lành -Tư lịnh phó Không quân và tướng Lê Ngọc Triển -Tham mưu phó Hành quân Bộ TTM túc trực tại phi trường TSN. Họ gọi điện báo ra Phú Bài và đích thân tướng Trưởng mang tài liệu về Đà Nẳng trao cho T/t Thành. Tài liệu về đến Sàigòn, trong đêm đó, chúng tôi đã thảo bản tin phổ biến cấp thời cho các địa phương và viết phiếu trình Tổng TMT.

Vì tính chất khẩn cấp, tờ trình được chuyển thẳng lên Phủ Tổng thống. Sáng sớm hôm sau, chúng tôi được Tr/tá Nguyễn quang Ngọc, CHT Trung tâm Khai thác tài liệu, hướng dẫn đến Dinh Độc lập trình bày chi tiết với Trung tướng Đặng văn Quang, Phụ tá An ninh Quân sự tổng thống, trong khi TT Thiệu họp khẩn cấp với các tư lịnh sư đoàn và các tỉnh trưởng. Tướng Quang cho biết, Kissinger vừa rời Sàigòn ba ngày trước, trong năm ngày ở đây để tham khảo với chánh phủ về bản dự thảo hiệp định, ông ta không đề cập gì đến việc ký kết, mà chỉ đưa ra một phó bản hiệp định để hai bên thảo luận. Trong khi chánh phủ VNCH chưa biết gì về việc ký kết và ngưng bắn thì tại Trung ương Cục Miền Nam và Quân khu 5 CS, cán bộ CS đã biết rõ ngày ký kết và giờ ngưng bắn có hiệu lực, để lợi dụng thời cơ đó chiếm ưu thế bằng cách lấn đất giành dân và cướp chánh quyền. Tại Củ Chi (Hậu Nghĩa), Hồng Ngự (Kiến Phong) và nhiều nơi khác, các đơn vị vũ trang CS tưởng có ngưng bắn thực sự, đã nhào ra đồng bằng cấm cờ lấn đất giành dân bị tổn thất nặng nề. (2)

Để biện minh cho hành động thất tín, chiều 27/10, đài phát thanh Hànội công bố toàn văn bản dự thảo hiệp định bằng ba thứ tiếng Việt, Anh và Pháp với hai bức điện xác nhận sự thoả thuận của TT Nixon. Bắc Việt tố cáo HK lật lọng tráo trở vì Kissinger đã hứa sẽ đi Hànội phê chuẩn rồi lại sai hẹn. Hai giờ sau khi Hànội công bố bản văn hiệp định, Kissinger mở cuộc họp báo tại Bạch Cung (sáng 26/10 giờ HK). Đây là lần đầu tiên, ông họp báo công khai thừa nhận: “hoà bình hiện đang ở trong tầm tay, hiệp định đang ở trong tầm mắt thấy, đặt trên cơ sở đề nghị ngày 8/5 vừa qua của tổng thống…Đó là một đề nghị công bằng cho tất cả mọi phe” (3). Kissinger cho biết chỉ còn một vài chi tiết nhỏ cần thảo luận thêm trước khi thoả hiệp được ký kết.

Cuộc đàm phán HK/CSVN đã bắt đầu tại Paris từ ngày 13/4/1968, trong thế “vừa đánh, vừa đàm”. Hànội muốn kéo dài đàm phán để thắng Mỹ vì phong trào phản chiến ngày càng lan rộng, đòi Mỹ phải rút khỏi VN. Còn HK thì cần thời gian để củng cố MN hầu chiến thắng CS bằng cuộc tổng tuyển cử tự do. Trong bốn năm sau đó, HK xúc tiến việc tăng cường QLVNCH, bình định nông thôn để thực hiện chương trình “người cày có ruộng”, thành lập các ngân hàng phát triển nông thôn và kế hoạch phát triển kinh tế thời hậu chiến.

Từ giữa năm 1972, tình thế VN đã có biến chuyển lớn. Nixon ra lịnh tái oanh tạc miền Bắc, rào mìn phong tỏa cảng Hànội và Hải phòng để ngăn chận nguồn tiếp tế của khối XHCN giúp BV. Nixon cũng đã thành công trong việc thiết lập bang giao với TC và ký hiệp ước SALT với LX. Cả hai nước này đều cam kết sẽ áp lực Hànội chấm dứt chiến tranh. Trong khi đó QLVNCH đã tái chiếm Quảng Trị, còn tại Mỹ, đang diễn ra cuộc bầu cử giữa ứng cử viên bồ câu McGovern và diều hâu Nixon. Hànội cho rằng đây là thời cơ để tấn công hòa bình, giành thắng lợi. Do đó, từ cuối tháng 7/1972, khi cuộc mật đàm tái tục, Hànội tỏ ra hòa hoãn không còn đòi loại bỏ chánh quyền Nguyễn văn Thiệu.

Ngày 11/9/1972, BV đưa ra đề nghị mới “giải quyết vấn đề nội bộ MNVN là phải xuất phát từ tình hình thực tế có hai chánh quyền và các lực lượng chính trị khác. Do đó cần thành lập một chánh phủ hòa họp dân tộc lâm thời gồm ba thành phần ngang nhau, đảm đang mọi công việc trong thời gian quá độ, để tổ chức tổng tuyển cử thực sự tự do dân chủ”. Hai tuần sau, trong cuộc mật đàm lần thứ 19, lần đầu tiên BV đồng ý một cuộc ngưng bắn tại chỗ với một giải pháp chánh trị cho MNVN. Ngày 8/10/1972 Hànội đưa ra bản dự thảo hiệp định, gần như họ đồng ý tất cả đề nghị của HK kèm theo một số điều kiện của họ, để hai bên thảo luận trong kỳ họp tới. Bản dự thảo được Kissinger thông qua và một lịch trình tiến hành đưọc hai bên chấp nhận:

•      -Ngày 18/10, HK ngưng oanh tạc và tháo gở mìn ở các cửa biển BV. Cùng ngày, Kissinger đến Sàigòn tham khảo với VNCH về bản dự thảo hiệp định.

•      -Ngày 24/10 Kissinger và Thọ phê chuẩn bản dự thảo sau khi được chánh phủ VNCH đồng ý.

•      -Ngày 26/10 bản văn hiệp định được ký kết tại Paris.

•      -Ngày 27/10 cuộc ngưng bắn bắt đầu.

Lúc đầu, LĐT đòi ngừng bắn ngày 31 tháng 10, nhưng bị Kissinger bác bỏ vì đây là cuộc ngưng bắn tại chỗ, nên phải thi hành ngay sau khi hiệp định được ký. Nếu muốn ngưng bắn ngày 31 thì hiệp định sẽ ký kết ngày 30. (4)

Trong hiệp định có một vài điều khoản bất lợi, song Kissinger phải chấp nhận, vì HK cần có một hiệp định hòa bình trước ngày bầu cử tổng thống 7/11 sắp tới. Vấn đề duy nhất mà CSBV không chịu nhượng bộ là việc rút quân của họ khỏi MN. Nixon cho rằng “HK không có cách nào bắt buộc BV phải nhượng bộ điểm này”. LĐT luôn nói rằng “Quân đội Mỹ thì rút về Mỹ, còn quân đội VN đóng trên đất nước VN, thì rút đi đâu?” (5) Ông cứ dùng lập luận đó để kéo dài đàm phán. Nixon thừa nhận: “Dù VNCH có xoay ngược được thế cờ, tái chiếm Quảng Trị và cố thủ Bình Long, nhưng BV vẫn còn chiếm đóng nhiều khu vực rộng lớn ở MN dọc theo khu PQS và trên vùng Cao nguyên. Nếu đi đến hòa giải lại đòi BV phải cho không những lãnh thổ mà VNCH không thể giành lại được, thì BV sẽ chọn con đường, thà đừng đi tới hòa giải còn hơn. Nếu cứ khăng khăng đòi BV phải rút ra khỏi MNVN thì ắt đã không có hiệp định hòa bình”. Để giải quyết nan đề này, HK chỉ đòi Hànội hứa sẽ không đưa quân vào MN nữa. Nixon hy vọng nếu BV giữ lời hứa, các lực lượng của họ ở MN sẽ phải rút ra, nếu không thì tan rã. Đòi hỏi của HK được Hànội đồng ý, hai bên chấp nhận một thời khóa biểu ký kết hiệp định như vừa kể. (6)

Theo đúng lịch trình, ngày 18/10/1972 Kissinger rời Paris đi Sàigòn trình bày bản dự thảo HĐ với chánh phủ VNCH sau đó đến Hànội dàn xếp một vài điểm kỹ thuật và phê chuẩn bản văn. Tại Sàigòn, Kissinger chuyển đến Thiệu lá thư riêng của Nixon đề ngày 16/10/1972. Nixon cho rằng trong bốn năm cầm quyền ông “Đã đứng sau lưng chánh phủ và nhân dân VNCH, ủng hộ sự đấu tranh dũng cảm của họ, nhằm chống xâm lăng và bảo tồn quyền tự quyết về tương lai chánh trị của mình”. Hoa Kỳ “cũng không bao giờ thương lượng với BV một giải pháp nào, có thể định đoạt trước tương lai chánh trị của MN. Chúng tôi trước sau vẫn triệt để tôn trọng lập trường là duy trì chánh phủ dân cử và bảo đảm cho nhân dân tự do VN cơ hội quyết định tương lai mình”. Đề cập đến tình hình sắp đến, khi cuộc xung đột quân sự chuyển sang đấu tranh chính trị, Nixon viết rằng: “Nếu như ta có thể mạo hiểm trong chiến tranh thì tôi tin là ta cũng phải mạo hiểm trong hòa bình. Ý định của chúng tôi là quyết tâm tôn trọng những điều khoản trong các hiệp định và thỏa thuận ký kết với Hànội và tôi cũng biết rằng đó cũng là thái độ của chánh phủ Ngài. Chúng tôi đòi hỏi phải có qua có lại và đã cảnh giác cho cả họ lẫn các đồng minh lớn của họ biết rõ như thế. Tôi xin cam kết với Ngài rằng bất cứ một sự bội tín nào về phía họ, cũng sẽ bị chúng tôi lên án khắc khe nhất và nó sẽ có những hậu quả trầm trọng nhất”. (7)

Dự thảo hiệp định ra đời trong hoàn cảnh cấp bách, có nhiều điểm bất lợi cho VNCH, do đó, trước khi đi Sàigòn, Nixon căn dặn Kissinger tránh chạm trán với Thiệu. Sau 5 ngày thảo luận, Kissinger rời Sàigòn mang theo bức thư của Thiệu gởi Nixon trong đó tóm lược những điểm phản đối của VNCH. Khi từ giả, Kissinger yêu cầu Thiệu: “Tôi yêu cầu có một sự đồng ý giữa chúng ta là không tiết lộ cho báo chí biết bất cứ điều gì đang diễn tiến. Hãy làm như chúng ta đã có được một buổi họp xây dựng”. Tới phi trường TSN, Kissinger thấy một đám ký giả, và nhiếp ảnh viên chực sẵn. Ông ngừng lại vài phút, một phóng viên hỏi: “chuyến đi này có được việc, có xây dựng không?” Ông trả lời: “được việc và xây dựng. Như bất cứ lần nào tôi đến đây”. (8). Như vậy, Kissinger đã thực hiện trọn vẹn mọi việc: đến Sàigòn tham khảo bản dự thảo hiệp định với VNCH. Đón nhận những đòi hỏi sửa đổi của TT Thiệu, Kissinger đã có cớ để tạm hoãn việc ký tắt hiệp định với LĐT như đã dự trù. Kissinger cũng đã giữ đúng cam kết mật đàm với LĐT, không tiết lộ bất cứ một điều gì về thời điểm ký kết và ngưng bắn. Việc tham khảo với VNCH như ông tuyên bố “được việc và xây dựng”, nghĩa là mọi việc êm xuôi, việc ký tắt sẽ tiến hành. Như thế, Hànội an tâm mọi kế hoạch không có gì thay đổi, liền ra mật lịnh lợi dụng ngày ngưng bắn như trình bày trên.

Ngày 3/11/1972 -bốn ngày trước khi dân chúng Mỹ đi bầu tổng thống và quốc hội, trong cuộc vận động tranh cử ở Rhode Island, Nixon tiết lộ thỏa ước hòa bỉnh đạt được với BV phải đáp ứng 3 điểm mà ông đưa ra ngày 8/5: Một là ngưng bắn trên toàn cỏi Đông Dương, không những ở VN mà cả ở Lào và Cam bốt nữa. Hai là hồi hương tù binh Mỹ và giải quyết vấn đề người Mỹ còn mất tích trong cuộc chiến. Ba là nhân dân MNVN có toàn quyền quyết định tương lai của họ, không được áp đặt một chánh quyền cộng sản hoặc liên hiệp nào trái ý nguyện của họ. Nixon thừa nhận có một vài chi tiết của hiệp định cần được nghiên cứu vì tầm quan trọng của nó và “điều quan trọng nhất là chúng ta sắp chấm dứt cuộc chiến này, chấm dứt cách nào để có một nền hòa bình thực sự trong những năm sắp đến. Đó là những gì mà nhân dân HK mong muốn”. (9)

Ngày 7/11, Nixon tái đắc cử nhiệm kỳ hai với số phiếu bầu kỷ lục. Có thể nói, việc trì hoãn ký tắt hiệp định khiến CSBV bị “hố” khi ra mật lịnh tấn công khi có ngưng bắn, là một thủ đoạn có tính toán của HK. Họ mượn tay BV công bố bản hiệp định trước ngày bầu cử ở Mỹ để cử tri Mỹ thấy rằng Nixon đã làm đúng lời hứa; chấm dứt chiến tranh VN trong nhiệm kỳ của ông. Mặt khác họ muốn cho thế giới thấy rằng Hànội sẽ không bao giờ thực hiện nghiêm chỉnh HĐ. Chính BV đã vi phạm HĐ ngay cả trước khi nó có hiệu lực. Ngoài ra, sở dĩ HĐ chưa thể ký được vì HK coi những đòi hỏi của TT Thiệu là chánh đáng, cần phải bàn thảo thêm với BV. Nhân đó áp lực Hànội phải chấp nhận ba điểm của Nixon. Quả thực, HĐ Paris 1973 đã thỏa mãn phần lớn những đòi hỏi của ông Thiệu và HK. Và cuối cùng giúp VNCH rút kinh nghiệm để đối phó khi HĐ chánh thức ra đời. (10)

 Thay đổi lịch sử: Vì những điểm trên, tôi rất thích thú khi thấy Gs Nguyễn tiến Hưng đề cập đến sự kiện -mà bản thân tôi là chứng nhân- trong quyển Hồ sơ mật Dinh Độc lập. Song tôi hết sức ngạc nhiên, khi thấy tác giả đã mang một sự kiện xảy ra vào ngày 26/10, gán nó vào ngày 17/10. Và từ sự kiện này mở đầu cho câu chuyện tranh cãi gay gắt giữa Kissinger với TT Thiệu và bí thư Hoàng đức Nhã khi Kissinger đến Sàigòn từ 18 đến 23 tháng 10/1972. Đó là nội dung Chương V – Mưu đồ của Kissinger, được bắt đầu nguyên văn như sau:

  

 “Vào lúc năm giờ chiều ngày 17-10-1972, ông Thiệu ra lịnh cho Bộ TTM gấp rút chuyển về Sàigòn một tập tài liệu vừa bắt được của Việt Cộng, tìm thấy dưới hầm một tên chính ủy thuộc tỉnh Quảng Tín. Được chở khẩn cấp bằng máy bay nhẹ, rồi máy bay trực thăng qua Đà Nẳng, các tài liệu này về tới bàn giấy ông Thiệu lúc nửa đêm. Ông vội vã đọc, hết sức sửng sốt vì nhận ra ngay rằng cán bộ CS, trong một tỉnh lỵ cô lập ở miền Trung, còn biết được nhiều chi tiết về hòa đàm Paris hơn là chính mình. Tài liệu mang tên “Chỉ dẫn tổng quát về ngưng chiến” có nội dung dường như lấy từ bản sơ thảo hiệp định lúc ấy đang được Kissinger và Lê đức Thọ thương thảo tại Pháp, và tiết lộ những nhượng bộ cơ bản của Kissinger. Cho đến lúc ấy, Thiệu chưa hề biết gì đến bản dự thảo cuối cùng của hiệp định, và chẳng được Kissinger thông báo gì cả. Vậy mà tại một tỉnh lỵ hẻo lánh xa xôi, phía nam Đà Nẳng, quân, cán CS đã đang bắt đầu học tập các tài liệu đó rồi, và dựa vào đó để chuẩn bị hành quân. Nổi bật nhất phải kể đến chi tiết liên quan đến chiến lược và chiến thuật của BV nhằm duy trì lực lượng tại miền Nam sau khi có tuyên bố đình chiến”. Sách viết tiếp: “Sau này, kể lại, lúc đọc xong tài liệu ông nói: “Đó là lần đầu tiên tôi biết được là mình đã bị Mỹ qua mặt. Người Mỹ nói với tôi là vẫn còn đang thương thuyết, là chưa có gì dứt khoát cả, thế mà bên kia đã có đầy đủ tin tức rồi” (Tr.145-46) 

Có lẽ xuất phát từ HSMDĐL, mà quyển No Peace, No Honor - Nixon, Kissinger and Betrayal in Vietnam do Tiến sĩ Larry Barman xuất bản năm 2001, đã viết: “On October 17 Thieu received a captured enemy document found in an underground bunker in a remote VC district in Quang Tin province. Titled “General Instructions for a Cease-Fire”, Thieu now realized that “commmunist cadres in an isolated province of Central Vietnam knew more about the details of the Paris talks than he did”. (Page 161) Sách của giáo sư Barman được Giáo sư Nguyễn mạnh Hùng chuyển dịch sang Việt ngữ: Không Hòa bình, Chẳng Danh dự với lời đề tựa của ông Hoàng đức Nhã xuất bản năm 2003.

Sau đó đến quyển Đất Nước Tôi của cựu thủ tướng Nguyễn bá Cẩn, cho biết “Ngày 19 tháng 10 năm 1972, Kissinger đến Sàigòn để thuyết phục TT Thiệu chấp nhận bản thảo hòa ước chấm dứt chiến tranh....Tưởng nên nói thêm rằng ngày 17/10/1972, tỉnh Quảng Tín đã tịch thu được một tài liệu của CSBV gởi các đơn vị trong Nam tựa đề “Chỉ thị tổng quát về một cuộc ngưng bắn”, trong đó có mật lệnh quan trọng nhất là các đơn vị VC phải mở tấn công cao điểm chiếm đất giành dân càng nhiều càng tốt, để nới rộng vùng kiểm soát của bọn chúng. Thì ra hai ngày trước khi TT Thiệu được trông thấy bản dự thảo hòa ước, thì Hànội đã “bán” được cho Kissinger điều khoản “ngưng chiến tại chỗ”(stand-still cease fire) nên đã chỉ thị các đơn vị MN của bọn chúng khai thác tối đa thắng lợi này. Còn Kissinger thì ngỡ rằng có thể áp lực được TT Thiệu để ngày 21/10/1972 bay sang Hànội hầu ký tắt (initial)”. (Tr. 259-260)

Quyển HSMDĐL còn tiết lộ, sau khi nhận bản dự thảo hiệp định từ tay Kissinger vào buổi sáng 19/10/1972, TT Thiệu giao cho Hoàng Đức Nhã nghiên cứu trước khi gặp lại Kissinger vào 5 giờ chiều. Nhã phân phát cho Ngoại trưởng Trần Văn Lắm, Cố vấn Nguyễn Phú Đức và Đại sứ Trần Kim Phượng mỗi người một bản sao để tham khảo trước. Đến trưa, Nhã mời họ dùng cơm ở nhà hàng La Cave.Ngồi vào bàn, Nhã hỏi ngay: “Quý vị nghĩ thế nào?” Họ trả lời: “Không đến nổi nào. Chúng tôi tưởng còn tệ hơn nữa”. Nhã gay gắt “Thế nào là không đến nổi nào? Quý vị đã đọc kỹ chưa?” (Tr.154) Sau đó Nhã tới dinh Độc lập giục ông Thiệu đòi thêm thì giờ để nghiên cứu và đề nghị “Xin anh bỏ buổi họp năm giờ đi”. Thiệu đáp “Nhưng mình đã lở hứa rồi”. Ts Hưng viết tiếp nguyên văn như sau: “Cùng một lúc, ông Thiệu lại nhận ngay được những báo cáo khẩn từ các bộ tư lệnh quân đoàn cho biết địch đang tập trung theo đúng những chỉ thị ghi trên những tài liệu tịch thu. Nhã nói ‘mình phải triệu tập tất cả các tỉnh trưởng về Sàigòn sáng ngày mai, và em sẽ lấy đó làm cái cớ để hoãn cuộc họp với Kissinger’. Thiệu quyết định không cho Kissinger biết về những tài liệu tịch thu, vì ông muốn để xem Kissinger sẽ nói gì về những điều kiện ông ta đã thỏa thuận với BV; ngoài ra Thiệu không muốn cho Kissinger có dịp để cãi rằng đó chỉ là chiến dịch phản tuyên truyền của CS. Thiệu nghĩ rằng đối chất Kissinger với những tài liệu tịch thu đó thì chỉ gây thêm căng thẳng mà thôi”. (Tr.171-72. Tác giả ghi chú: phỏng vấn Hoàng Đức Nhã ngày 23-7-1985) 

Đọc đoạn văn trên, những nhân chứng hiện nay còn sống ở HK như Đại tướng Cao Văn Viên -cựu Tổng TMT, Đại tá Hoàng Ngọc Lung -cựu Trưởng phòng Nhì/Bộ TTM, Tr/tá Ngọc, T/tá Thành, Đ/úy Nguyễn Cao Thăng… và cựu Tr/tướng Đặng Văn Quang ở Canada, sẽ đánh giá TT Thiệu là người nói dối. Vì vào ngày 20/10 làm sao ông có được tài liệu tịch thu ngày 25/10, để đối chất với Kissinger? Vì thế ông “quyết định không cho Kissinger biết tài liệu đó”. Và làm sao có việc “các quân khu báo cáo khẩn địch đang tập trung theo đúng những chỉ thị ghi trên những tài liệu tịch thu”?  

Tóm lại, không có gì chứng tỏ Kissinger nói dối. Ông đi Sàigòn, trao nguyên văn bản dự thảo hiệp định để thảo luận và ông đã có áp lực VNCH ký kết. Điều đó cho thấy ông đã làm đúng lời hứa với LĐT, có như vậy Hànội mới tin chắc là hai bên sẽ ký tắt vào 24/10 như đã thỏa thuận. Ông cũng đã cố thuyết phục TT Thiệu suốt 5 ngày, nhưng vì ông Thiệu nêu ra những điểm rất chánh đáng đòi phải sửa đổi, và ông đã chấp nhận. Do đó, khi rời Sàigòn, ông đã báo ngay cho LĐT biết là hai bên chưa thể hoàn tất hiệp định được. Trái lại, Nhã lên án Kissinger nói dối, bằng cách thay đổi lịch sử, đặt điều những chuyện không có thật. Hậu quả là tổng thống VNCH mang tiếng nói dối. Thanh danh đất nước bị hoen ố. Lúc đương quyền, được TT Thiệu tin cậy, trao cho quyền cao chức trọng, thử hỏi giờ đây hai ông Hoàng Đức Nhã và Nguyễn Tiến Hưng có dám đính chánh, nói lên sự thật để giải oan cho người đã khuất hay chưa?

Hậu quả của việc tráo trở sự kiện lịch sử của giới lãnh đạo VNCH, thật ra chỉ có Hoàng Đức Nhã -người em bà con của ông Thiệu và bè bạn của Nhã mà tuổi đời chỉ trên dưới 30, đã làm miền Nam sụp đổ. Đó là nổi bất hạnh của dân tộc khi vị lãnh đạo quốc gia đặt vận mạng đất nước vào đứa em họ mà ông “tin cậy và coi là một chuyên gia vể HK”. Nhã học ở HK “đã nhiễm được những phong cách, dáng điệu, cũng như những tiếng lóng của người Mỹ” và “phong cách lấc cấc kiểu Mỹ con, giữa thời chiến mà y lái xe Mustang mui trần, rồi Mercedès ngông nghênh diễn ra các phố phường Sàigòn. Đó là biểu hiệu của sự phô trương và đặc quyền” hoặc “một số chánh khách cả Việt lẫn Mỹ đã coi anh ta như là người thiếu kinh nghiệm, kiêu ngạo và hay lạm dụng quyền thế”. Đó là những nhận xét của Ts Nguyễn Tiến Hưng (11) Trong lúc HK sắp kết thúc chiến tranh bằng một hiệp định hòa bình đáp ứng những nguyện vọng lớn của toàn dân là dân chủ tự do, độc lập thống nhất, với các cuộc tổng tuyển cử tự do để nhân dân thực hiện quyền tự quyết của mình. Thì giới lãnh đạo VNCH biến cuộc kết thúc đó thành bước mở đầu một cuộc chiến mới giữa VNCH và HK. Từ đó Miền Nam tự do mất hết đồng minh -không những từ sau HĐ Paris 1973, mà mãi đến ngày hôm nay.

Kết luận: Số phận đau thương của đất nước cũng là số phận của một nhân chứng vừa nằm xuống: cố Trung tướng Ngô Quang Trưởng. Tháng 10/1972 từ địa đầu giới tuyến, ông báo cáo TT Thiệu một hiệp định ngưng bắn sắp sửa ra đời. Trong 30 tháng sau đó, một thời gian đủ dài để giới lãnh đạo quốc gia thích nghi với tình thế mới từ đấu tranh quân sự sang đấu tranh chánh trị. Đùng một cái, vào ngày 13/3/1975, ông được tổng thống gọi về Sàigòn bảo phải “rút bỏ QĐ I ngay hôm nay”. Ông trình bày là “đủ sức chống giữ, nhưng tổng thống và thủ tướng không chấp nhận. Lịnh bất di bất dịch là: Phải rút khỏi QĐ I càng sớm càng hay”. Tuy vậy, ông vẫn chần chờ, cố giữ vùng địa đầu giới tuyến, nhưng đến ngày 19/3 khi Cộng quân BV tấn công Quảng Trị, dân chúng cố đô Huế ùn ùn kéo vào Đà Nẳng. Chỉ trong 10 ngày, Đà Nẳng trở thành một thành phố hỗn loạn với số dân chúng tăng lên gấp ba lần. Hầu hết các đơn vị còn đầy đủ vũ khí nhưng không người chỉ huy, họ đổ xô ra bờ biển, trưng dụng và cướp ghe thuyền đánh cá của dân chúng để xuôi Nam.

Ngày 30/3/1975, VNCH hoàn toàn mất quyền kiểm soát ở Đà Nẳng. Nếu cả kể QĐ II (cũng được lịnh rút bỏ sau QĐ I một ngày) thì 5 sư đoàn bộ binh, các đơn vị nhảy dù, thủy quân lục chiến, các đơn vị không và hải quân, các lực lượng địa phương quân và nghĩa quân, tổng cộng trên 270 ngàn đã tan rã. Số binh sĩ và thường dân thương vong rất nhiều. Trước thảm cảnh đó tôi rất đau buồn cho vận nước: từ ông tổng thống nổi tiếng “lỳ’, nay hết “lỳ’ (không còn “bốn không”) thì gặp phải ông tướng nổi tiếng tôn trọng quân kỷ, nay lại bất tuân thượng lịnh. Ý nghĩ đó ám ảnh tôi suốt hơn 30 năm qua…Nhưng mới đây, tôi biết thêm một sự thật từ một nhân chứng mới: cựu phó Đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, nguyên Tư lịnh Vùng I Duyên hải. Trong quyển “Can trường trong chiến bại – Hành trình của một thủy thủ” (vừa được phát hành tại Cali ngày 21/3 vừa qua), tác giả tức Đề đốc Thoại cho biết tướng Trưởng đã tiết lộ cho ông biết: “Ngày 13/3/1975 tại dinh Độc lập, TT Thiệu nhận định không còn cách nào với ngân khoản viện trợ của HK bị cắt giảm, chánh phủ có thể giữ được sự toàn vẹn của lãnh thổ miền Nam. TT Thiệu lấy viết vạch một đường từ Ban Mê Thuộc xuống Tuy Hòa và nói đó là ranh giới của miền Nam. TT Thiệu còn căn dặn tướng Trưởng phải giữ kín không tiết lộ cho các tư lịnh sư đoàn, các tỉnh trưởng cũng như hải quân và không quân biết việc bỏ miền Trung”.

Thử hỏi, tướng Trưởng làm sao có thể tuân hành một mệnh lệnh có thể nói là “tàn nhẫn, cạn tàu ráo máng” của vị tổng thống, tổng tư lịnh tối cao quân đội như vậy. Làm sao ông có thể nhẫn tâm bỏ rơi chiến hữu -những thuộc cấp của mình đã từng đồng lao cộng khổ tại tuyến đầu lữa đạn. Vì thế ông phải nấn ná ở lại, cho đến ngày 29/3/1975 ông ra một lịnh cuối cùng: “Các anh không còn nhiệm vụ gì nữa, các anh tùy nghi tìm phương tiện ra tàu”. Còn ông “ở lại một mình trong trại TQLC ở căn cứ Non Nước, không còn phương tiện khác”, chiếc trực thăng dành cho ông đã cất cánh.(12) Đối với tôi, giờ phút này Trung tướng Ngô Quang Trưởng đã tuẩn quốc. Có thể, sau khi mọi người ra đi, ông sẽ noi gương cụ Phan Thanh Giản ngày trước -cùng quê hương Bến Tre với ông, quyên sinh ngay tại biên trấn mà mình nhận trọng trách. Khác với cụ Phan, tướng Trưởng không đầu hàng. Nhưng sự đời run rủi, đại tá Nguyễn Thành Trí –tư lịnh phó Sư đoàn 369 TQLC, nhìn thấy ông suy yếu sau nhiều đêm mất ngũ, không đành bỏ lại nên trồng một áo phao vào người ông để bơi ra tàu.

Đến trưa ngày 29/4/1975, toàn bộ cấp chỉ huy ở Bộ Tổng Tham Mưu đều di tản, chỉ còn đơn độc tướng Trưởng vì cái quyết định của tướng Cao Văn Viên bổ nhiệm ông làm phụ tá Tổng TMT. Đúng một tháng trước, ông không được chết với Vùng I nơi ông trấn nhậm, thì nay ông sẽ cùng chết với QLVNCH tại cơ quan đầu não này. Nhưng cũng do cơ trời run rủi, tướng Nguyễn Cao Kỳ vào phút chót, đáp trực thăng xuống Bộ Tổng Tham Mưu, để nắm tình hình, xem có thể cứu vãn được gì không? Nơi đây vắng lặng chỉ còn tướng Trưởng mà thôi. Tướng Kỳ đưa ông lên trực thăng bay ra hạm đội.

Ba mươi hai năm qua sống ở hải ngoại, ông âm thầm ray rứt với lầm lỗi của mình (có lỗi với thượng cấp, và lỗi với thuộc cấp). Chính bà Trưởng cũng chia sẻ với ông: chồng bà cũng có lỗi…Nhưng ông không nhắc đến cái lịnh “tàn nhẫn” của TT Thiệu ngày 13/3/1975. Sau khi ông qua đời, cựu phó Đề đốc Thoại mới tiết lộ. Ông cố giữ uy tín TT Thiệu đến cuối đời, trong khi những đệ tử tổng thống, “ở nhà mát ăn bát vàng, sớm cao bay xa chạy” lại viết sách sửa đổi lịch sử để biện minh cho lãnh tụ, khiến TT Thiệu mang thêm tai tiếng: là kẻ nói dối.

 

Chú thích:

1. Nguyễn Tú, Điểm tột cùng của sự ô nhục, Tivi Tuần san, Úc châu 06-02-2002.

2. Lê Quế Lâm, Việt Nam Thắng và Bại, Ngọc Thu xuất bản, Sydney, 1993, Tr.424-425)

3. Nguyễn Tiến Hưng & Jerrold L. Schecter, Hồ Sơ Mật Dinh Độc lập, C & K Promtions Inc, Los Angeles, 1987, Tr. 194/195.

4+5. Lê Đức Thọ, Bài nói chuyện với Lực lượng Phòng không/Không quân BV. (Tài liệu do QLVNCH tịch thu hồi tháng 3/1973).

6- Richard Nixon, No More Vietnam, Arbor House, NY, 1985, P. 152/153.

7- Nguyễn Tiến Hưng & Jerrold L. Schecter, Sđd, Tr. 149-152.

8- Nguyễn Tiến Hưng & Jerrold L. Schecter, Sđd, Tr. 182.

9- Stephen E. Ambrose, Nixon –Volume II, The Triumph of a Politician 1962-1972, Simon & Schuter, London, 1989, P.643-44.

10- Lê Quế Lâm, Sđd, Tr. 426.

11. Nguyễn tiến Hưng & Jerrold L. Schecter, Sđd, Tr.80.

12- Lữ Giang, Can trường trong chiến bại – Hành trình của một thủy thủ, Báo Việt Luận, Úc châu 06-04-2007

 

http://www.buinhuhung.com/Nghi_Ank/NQT/Biography_Ngo_Quang_Truong.htm

up

AcDieu
Google Search:       

Tin vui

Tin Buồn

 

RFI
Nguoi_Viet
RFA
Quan_Su_VNCH
Quân Sử VNCH
Voa_tieng_Viet
msn
BBc_Tieng_Viet
Dan_lam_bao
Radio_VNHN

TIME